MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI THÂN CẬN --- Chú giải mục vụ của Hugues
Cousin
Phải làm gì để được
sống đời đời? Bản tóm tắt Lề Luật nói
rất rõ (cc. 25-28). Với đề tài điều
răn lớn nhất; mà cả hai tác giả Nhất Lãm
khác cũng có (x. Mc 12,28-31) có một câu hỏi khác, riêng
của Luca, câu hỏi về người thân cận; câu
hỏi này được làm sáng tỏ bằng dụ ngôn
người Samari tốt lành (cc. 29-37), những tác giả
Tin Mừng không ngừng lại giữa đường;
đoạn nói về hai chị em Matta và Maria, cho phép ông
tiếp tục minh hoạ cho điều răn lớn
nhất (cc. 38-42). Dụ ngôn đã giải thích phải
hiểu thế nào là yêu người thân cận; câu
chuyện về hai chị em cũng làm một công việc
tương tự về điều răn yêu mến Chúa.
Toàn bộ bản văn dạy phải trao ban có
người khác trong khi tiếp nhận từ Chúa.
1. Điều Răn Lớn: 10,25-28
Và này
có người thông luật kia
đứng lên, một trong những kẻ khôn ngoan và thông
thái vắng mặt ở hoạt cảnh trước. Muốn thử thách Chúa Giêsu về kiến
thức của Ngài trong vấn đề Luật, ông ta ép
buộc Ngài tự tuyên bố về điều Ngài quan tâm,
dựa vào truyền thống và suy tư cá nhân của Ngài,
đối với cái cốt yếu và quan trọng nhất
trong Luật (S. Légasse). Để đạt mục
đích này, ông ta đặt ra một câu hỏi, đã
được thoả thuận trong Do Thái giáo, về
điều răn lớn nhất (x. Mc 12,28)
hoặc về những phương thế để
đón nhận sự sống của Thiên Chúa (như ở
đây và ở Lc 18,18). Lời đáp của
Chúa Giêsu thực ra là một câu hỏi ngược lại
về luật; như đối thủ của mình, Ngài
biết rằng đọc Kinh Thánh chính là giải thích Kinh
Thánh. Vì thế Ngài mới hỏi: về vấn
đề này: ông đọc thế nào?
Lúc
đó Luật sĩ trưng ra điều luật của
Đnl 6,4 mà mọi người Do Thái đạo
đức đọc hai lần một ngày trong kinh Shema
Israel và nó đòi hỏi nơi họ một sự gắn
bó hoàn toàn vào Thiên Chúa duy nhất. Rồi ông ta nói thêm
điều luật của Lv 19,18 về
tình yêu người thân cận. Khi đặt hai câu ấy
nối tiếp nhau, ông đã tuân theo
truyền thống Do Thái đánh giá tình yêu tha nhân bằng
cách đặt nó ngang tầm mức với tình yêu Thiên Chúa.
Một cách đọc Kinh Thánh như vậy hoàn toàn ăn
khớp với lời giải thích của Chúa Giêsu, chính
Người đã đặt ra tình yêu kẻ thù ở trung
tâm của ơn gọi Kitô hữu (x. 6,27tt). Trong khi tán thành
ý kiến của ông, Chúa Giêsu mời vị luật sĩ
đem ra thi hành giới răn yêu thương thương theo hai chiều kích: làm như vậy thì
sẽ được hưởng sự sống tròn
đầy mà câu hỏi ban đầu đã nói đến.
Độc giả cũng được mời gọi
nối kết với hoạt cảnh trước (10,21-24): kết quả cuối cùng của tình
yêu đối với Thiên Chúa và với người thân
cận nảy sinh qua năm tháng, phải chăng không là
việc hiểu biết Chúa Cha? Nếu ông luật sĩ
thực hành luật mà ông đã phụng tự, ông sẽ
trở lại tình trạng của những người bé
mọn và sẽ thấy được sự hiện
diện hoạt động của Thiên Chúa.
2. Dụ Ngôn Người Samari Tốt
Lành: 10,29-37
Hoạt
cảnh lại tiếp diễn bởi vì ông luật sĩ
đặt một câu hỏi mới, mà ông cho là tuỳ
phụ thôi: ông muốn tỏ ra mình có lý khi đặt
vấn nạn ban đầu. Ở đây Chúa
Giêsu không trả lời câu hỏi. Đưa ra
một định nghĩa về người thân cận
có thể sẽ rơi vào cái chi li của luật mà Ngài
đã từng trách các Kinh sư và nhóm Pharisêu; Chúa Giêsu sẽ
trở thành một luật sĩ mất! Trái
lại, Ngài kể một dụ ngôn (cc.30-35) mà Ngài sẽ
kết thúc bằng một câu hỏi ngược lại
(c.36).
Trong
hoạt cảnh, những người ẩn danh
được biết qua vai trò xã hội hay tôn giáo của
họ: kẻ cướp và chủ quán cư ngụ
tại con đường này; thầy tư tế và Lêvi là
khách qua đường, người Samari đi
đường. Người này là một tên lạc giáo
chỉ chấp nhận có Luật thành văn là bộ Ngũ thư và từ chối hoàn toàn
luật truyền khẩu. Dưới mắt ông luật
sĩ, anh ta hoàn toàn trái ngược với hai vị
đáng kính phục vụ Đền Thờ. Còn về con
người nửa sống nửa chết thì không hề
có một lý lịch xã hội nào; người ta cũng
chẳng biết anh ta có phải là Do Thái hay không nữa. Khi
dàn dựng các nhân vật như thế, Chúa Giêsu tránh
được cái lôgich của câu hỏi mà ông luật
sĩ đặt ra, có thể đưa Ngài tới chỗ
trình bày người thân cận dưới dáng vẻ
một anh chàng Samari nửa sống nửa chết. Thế nhưng, người Samari là một trong
những người đi đường ấy. Cũng như các công chức của Đền
Thờ, ông nhìn thấy kẻ bị thương.
Nhưng người kia đứng cách xa bởi vì biết
chừng đâu đó là một tử thi và sẽ làm họ
bị nhiễm uế: họ tuân giữ Luật cấm (Ds
19,11-16). Trái lại, người Samari
chạnh lòng thương – cũng chính là thái độ
của Chúa khi thấy bà goá ở Nain (7,13).
Trong khi các giáo sĩ, vì tôn trọng Luật về sự
trong sạch, tách rời tình yêu Chúa khỏi tình yêu
người thân cận (xc.27) và”tránh qua bên kia” mà đi, thì
người Samari lại săn sóc người bị
thương, một hành động được
diễn tả bằng sáu động từ ở câu 34 và
tiếp tục những biến thái ở câu 35. Thực vậy, ông ta trao tiền cho chủ quán
để ông này săn sóc người xa lạ này thay cho
ông. Như thế, thay vì phải ở lại do
biến cố bất ngờ, ông một mình tiếp
tục lên đường. Nếu ông dự trù trở
lại để thanh toán tổn phí phải trả thêm, ông
không nói đến việc sẽ hỏi tin tức về
người ông đã cứu giúp.
Phù hợp với tâm trạng của các
nhân vật trong dụ ngôn, câu hỏi ngược lại
đầy năng động của Chúa Giêsu đặt ra
làm biến đổi câu hỏi của ông luật sĩ
(câu 33 so sánh với câu 29).
Ông luật sĩ tự đặt mình làm trung
tâm thế giới khi hỏi ai là người thân cận
của ông. Chúa Giêsu đảo ngược vấn
đề:”Ai đã là người thân cận của
người bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Người thân cận là
người tỏ lòng thương xót chứ không phải
kẻ thụ hưởng lòng thương xót.”Người
thân cận không còn phải là người khác để yêu
thương, nhưng là kẻ đã tỏ ra gần gũi với họ, mà là chủ thể
của hành động đã được làm vì anh ta”
(J.Delorme). Người thông luật đã
trả lời được chính xác khi bảo
người thân cận chính là kẻ đã thực thi lòng
thương xót (Cl 37). Chẳng sao cả: chính một
kẻ lạc giáo, tức là có một tương quan sai
lạc với luật, đã biết giữ luật
của Lêvi 19,18 chứ không phải các chuyên viên phụng
tự… Lúc đó, Chúa Giêsu chỉ cần kêu
mời ông luật sĩ cũng làm những việc
giống như vậy.
|