Giới luật yêu
thương - R. Gutzwiller
1. GIỚI LUẬT
Như Đức Giêsu lên
đường đi Giêrusalem, người ta cũng lên
đường tiến về Giêrusalem trên trời. Vấn đề đặt ra ở
đây là làm thế nào biết được con
đường dẫn đến nơi đó và
điều cốt yếu để đạt đích
hệ tại điều gì. Câu hỏi của luật
sĩ nói lên 2 chủ đề ấy: ‘Lậy Thầy, tôi
phải làm gì để được sống đời
đời?’. Câu trả
lời quá rõ. Đức Giêsu để cho luật
sĩ tự rút từ sách luật ra câu trả lời:
đó là một mệnh lệnh kép về lòng yêu mến
Thiên Chúa và tha nhân.
] Kính
mến Thiên Chúa
Thiên Chúa là cùng đích. Yêu mến Thiên Chúa là con
đường. Đây là tâm điểm của Cựu
ước và Tân ước, của Lề Luật và Phúc âm,
và xét từ bên ngoài, của ngoại giáo và Kitô giáo, qua môi
miệng những đại biểu tốt nhất,
đều đồng tâm nhất trí như vậy.
Yêu thương là mầu nhiệm thâm
sâu nhất của nền đạo đức tự nhiên
và của nền luân lý được đặt lên trên
nền tảng siêu nhiên. Vì cả 10 giới luật không là gì khác hơn là
nhiều phạm vi hoạt động của cùng một
giới luật yêu thương. Các nhân
đức chỉ là những nhánh phát sinh từ thân cây
ấy thôi. Lời cầu nguyện
một đàng phát xuất từ tình yêu, đàng khác lại
cầu xin tình yêu. Phụng vụ chẳng qua chỉ
là thờ kính Thiên Chúa, phát sinh do tinh thần hy sinh và
đạo đức, đồng thời cũng là ân
huệ Thiên Chúa ban cho con người trong tình yêu
thương hợp nhất hay nói cách khác là ‘thông hiệp,
hiệp lễ’. Chính giáo luật cũng nói đến
sự liên hệ căn bản với tình yêu. Vì luật là mệnh lệnh của tình yêu, là thân
thể mà tình yêu sẽ gán cho một tâm hồn.
Bởi vậy, tình yêu là nguyên lý thành lập, là sức
mạnh sáng tạo, là thành tố cốt yếu của lòng
kính tin, hợp nhất và đơn nhất hoá mọi
điều.
] Yêu
thương tha nhân
Nhưng
con người không phải là lữ khách độc hành,
một mình lên đường đi về với Chúa.
Như suốt lịch sử thế giới cho thấy,
cuộc đời, theo kế hoạch của Thiên Chúa là
một bước đi của các dân tộc đến
cùng Thiên Chúa, một đoàn lũ hợp nhau trở về
nơi định cư của mình. Đó là lý do tại sao
một tu sĩ không nên rút lui vào nơi thanh vắng một
mình. Sống cốt yếu là sống cộng
đoàn. Thế nên, tình yêu chân thực
đối với Thiên Chúa phải thực sự triển
nở nơi tình yêu đồng loại.
Những thái độ sẵn lòng
đối với Thiên Chúa mà ta có thể sánh như cái
đà ‘hàng dọc’ sẽ triển khai thành ‘hàng ngang’
đối với đồng loại. Tôn giáo xét tự nền
tảng vốn có tính xã hội, nó không phải là khu vực
của một cá nhân mà ở đó có thể quan tâm
đến anh em mình hay là không cũng được.
Ngay cả một thày tu trong căn phòng nhỏ bé của tu
viện, một ẩn sĩ trong sa
mạc, tự bản chất vẫn hiện diện
một cách ‘xã hội’ trong lời cầu nguyện và thành
tâm sám hối. Không ai có thể và được
phép tách biệt khỏi cộng đoàn. Như tình yêu
đối với Thiên Chúa nhất thiết phải sinh ra
tình yêu đối với đồng loại, thì tình yêu
đối với đồng loại cũng vậy
phải do từ tình yêu chân thành đối với Thiên Chúa.
Người ta có thể coi đó (và thực
đã có như vậy) như một tình bằng hữu,
một chủ nghĩa nhân đạo, nhưng tình yêu
ấy không trợ giúp anh em dựa trên nền tảng chính
yếu: cùng nhau bước tiến trên đường
về với Chúa. Và vấn đề là
ở chỗ đó. Vậy, sau khi đề cập
đến tình yêu kép đôi này, Đức Giêsu nhấn
mạnh đến điểm căn bản sâu xa này: ‘hãy
làm thế và ông sẽ được sống’. Nói cách khác:
‘anh đã đi đúng đường, đã tiến
tới gần đích, ‘là sống trong Chúa’.
2. DỤ NGÔN
Luật sĩ muốn biện bạch. Xét cho cùng, ông chẳng
thực tâm trong khi đặt vấn nạn mà cũng
chẳng có tinh thần tìm tòi cho bằng ông muốn
‘thử’ Đức Giêsu. Thua cuộc rồi, ông
cố tránh né yêu sách gắt gao và hỏi
thêm để che đậy sự thất bại và dùng
mọi mánh khoé để Chúa phải lúng túng.
Dẫu thế, Đức Giêsu vẫn
giải đáp cho vấn nạn ông nêu ra. Ngài đưa ra một
thí dụ, thí dụ về một con đường.
Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô
bị lũ cướp bóc lột và
bị đánh đập dở sống dở chết. Ai
trên đường đi về với Chúa ắt có
thể cũng chịu chung một
số phận như thế. Thực ra qua bao thế
kỷ, cho thấy con người luôn gặp phải
như thế trong suốt cả hành trình lịch sử
của mình. Satan đã cướp phá nhân loại này,
cướp mất đời sống siêu nhiên phong phú
của nhân loại khi còn ở trong vườn Diệu
quang xưa kia, khiến nhân loại
phải chịu cảnh dở sống dở chết
như bây giờ.
Những
khả năng hiểu biết về mặt tôn giáo, hành
động theo luân lý, đã bị
giảm thiểu thật đáng kể. Những
khả năng ấy không chết đi, mất đi mà là
bị tổn thương trầm trọng. Có
những người cũng bước qua con
đường ấy và được coi là những
người luôn có tình mến Chúa: các tư tế và Lêvi chẳng
phải là những người luôn luôn phụng sự Thiên
Chúa đó sao?
Họ từ đền thờ ra đi
và vẫn khoác trên mình những dáng vẻ hoa mỹ và oai
vệ của lễ nghi.
Họ bước qua mà cứ phớt tỉnh chẳng màng
chi đến những người không may gặp nạn
và họ lại còn đấm ngực tự mãn cho rằng
thái độ dửng dưng ấy bằng lòng mến yêu
Thiên Chúa của họ. Vị tư tế
tự nhủ rằng mình hiện diện chỉ
để phục vụ Thiên Chúa chứ không để
phục vụ nhân loại. Còn Lêvi lại tự
nghĩ rằng mình phải cẩn thủ sự thuần
khiết của bậc Lêvi, nhân danh tình yêu đối
với Thiên Chúa, không để mất nó khi rờ tới
một người có thể chết trong tay mình.
Hai thứ người này tưởng
rằng mình yêu Thiên Chúa mà không cần yêu đồng
loại. Và những ai
cư xử không dựa trên xã hội đang khi vẫn phát
huy những việc đạo đức, những nghi tiết
những việc phụng thờ, là những người
đã muốn tách hẳn tôn giáo khỏi thế tục,
muốn hoàn tất thái độ chẳng có chút gì là
đạo đức, như các tư tế và Lêvi bỏ
qua không màng tới nhân loại đang lâm cảnh đau
thương.
Một
lữ khách thứ ba xuất hiện, đó là một
người ngoại, người xứ Samaria, người này hẳn là phải
đi một đoạn đường dài và xa hơn
những người kia; có thể là
một thương gia, luôn bôn tẩu ngược xuôi. Con
người đó hẳn là rất xa lạ với nạn
nhân kia, khác quốc tịch, khác cả
tôn giáo. Xét mối tương quan nào đi
nữa, bên ngoài hay bên trong, dân sự hay tôn giáo, hắn
cũng là một kẻ xa lạ hoàn toàn.
Nhưng chợt thấy một
người bị lâm nạn nửa sống nửa
chết như thế, hắn tiến lại gần ngay. Qua cử chỉ ấy,
hắn trở nên một người rất thân cận
của nạn nhân. Chính hắn đích thân
mang nạn nhân đến quán trọ và vì gấp rút qua
hắn đành ra đi; để lại số bạc
cần thiết và hứa sẽ trả số còn lại
khi trở về. Như thế hắn
vẫn tiếp tục quan tâm đến nạn nhân xấu
số và trong tâm hồn không thể quên người ấy
được, trong khi mong mỏi sớm về gặp
lại.
Một
người khá xa lạ lại nên người gần gũi, thấy tha nhân lâm nạn, hắn nên
bạn thân ngay. Và đó không phải đơn giản là
một thứ bác ái cảm tình, màu mè, nhưng thật là
một hành vi ra tay trợ giúp. Ta có
thể nhận ra tính tốt của hắn qua các chi
tiết sau:
‘Lại gần, băng bó thương
tích, xức dầu và rượu, đoạn vực
người ấy lên lừa của mình mà đưa
về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền ông trao cho chủ quán
mà bảo: ông hãy săn sóc người ấy, và phải
tiêu pha gì thêm thì khi trở về tôi
sẽ trả cho ông’.
Người Samaria được
đưa ra làm tiêu biểu ấy chính là Đức Kitô. Nhân loại đang cơn hấp
hối, Ngài không bỏ rơi mà còn từ trời cao
xuống thế, cất bước lên đường, ân cần săn sóc nhân loại, cúi xuống,
đổ tràn dầu và rượu các nhiệm tích trên
những vết thương do tội lỗi gây nên. Ngài
đã dẫn đưa nhân loại vào Giáo Hội là quán
trọ trong cuộc hành trình qua bao thế hệ, Ngài đã
uỷ thác cho Giáo Hội việc ân cần chăm sóc
chữa trị nhân loại; Ngài đã trả bằng giá máu
Ngài và còn hứa thanh toán số còn lại trong ngày sau
hết, tức là ngày Ngài Quang Lâm: khi ấy mọi thụ
tạo được lành lặn toàn vẹn sẽ
tiến về cùng đích của cuộc hành trình.
Để
kết thúc dụ ngôn, Ngài khuyên bảo: ‘Hãy đi và làm
như thế và ông sẽ được sống’. Như thế, con đường lại
được đặt thành vấn đề. Vì
từ lúc này, con người biết: mình phải đi con
đường nào và phải bước đi trên con
đường ấy bằng tinh thần nào; điều
chi sẽ xảy đến cho mình và người lữ
khách sẽ nhìn rõ bổn phận nào phải thi hành đây. Bởi đó, câu chuyện này phải là một
dấu định hướng thực sự.
|