Hành trang tông đồ – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai. Ngài cho các
ông sống bên cạnh mình. Ngài trực tiếp huấn
luyện bằng cách cho các ông được nghe những
lời Ngài giảng, được xem những việc
Ngài làm. Sau đó, Ngài sai các Tông đồ ra đi thực
tập truyền giáo. Chúa Giêsu còn chọn thêm nhiều môn
đệ nữa. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy 72 môn
đệ được sai phái thêm sau chuyến sai đi
Nhóm Mười Hai (Lc 9,1-6) vì "Lúa chín đầy
đồng mà thợ gặt lại ít" (Lc 10,2). Thánh Luca
muốn nhấn mạnh rằng, không riêng gì các Tông
đồ, mà tất cả mọi người đều
được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Hai
động từ "gọi, sai đi" diễn tả
rõ rệt ơn gọi của các môn đệ.
Trước khi các học trò lên đường, Chúa Giêsu
căn dặn nhiều điều như là hành trang cần
thiết cho sứ vụ tông đồ. M. Quesnel ví những
lời đó như "một loại thủ bản,
một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo"1.
1. Hành trang Tông
đồ
Hành trang đi đường chỉ là: cây
gậy, đôi dép, không mang hai áo. Ý nghĩa ở đây là
những kẻ được sai đi phải là những
con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng
nề với của cải vật chất để có
thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ
vụ.
Chuyến đi nào cũng cần đến
những hành trang. Hành trang cồng kềnh bước
đi sẽ chậm. Hành trang gọn nhẹ bước
tới sẽ nhanh. Hàng trang càng được tinh giản
chỉ còn lại những gì thiết yếu nhất thì
bước chân cũng sẽ thanh thoát khai lối cho mùa
sứ vụ.
Hành trang của những kẻ lên
đường xem ra chẳng có gì. “Gậy và dép” như
gợi lại buổi Xuất hành. Nhẹ nhàng quá! Bận
vướng với của cải đất đai
sản nghiệp đùm đề làm sao có đủ tự
do để bứt ra mà dứt khoát lên đường?
Hành trang của những kẻ lên
đường xem ra chẳng có gì. “Không bánh, không bị,
không tiền, không hai áo”. Nghèo khó quá! Chả bù cho con
người ngày nay luôn biết tích lũy lo xa, có của
ăn chưa đủ, còn có của để dành nữa.
Nhưng cái nghèo về tài sản lại cho thấy cái giàu
về đức hạnh. Không lo chiếm hữu hoặc gắn
bó với của cải vật chất, người Tông
đồ trở nên thanh thản lên đường
bất cứ lúc nào. Không bận vướng những
thứ lỉnh kỉnh làm nặng bước đi
hoặc làm chùn bước tới, người Tông
đồ học sống tinh thần phó thác để
chỉ biết đợi chờ tất cả nơi
một mình Thiên Chúa.
Xem ra chẳng có gì. Mà thực ra lại có
tất cả. Bởi hành trang đích thực của
họ chính là Chúa, Đấng đã nên sản nghiệp cho những
kẻ được sai đi 2.
Hành trang ấy còn có ý nghĩa đặc
biệt nữa. Đó là các môn đệ được
tham dự vào ba chức năng tư tế, tiên tri và
vương đế của Chúa Giêsu. Cây gậy của
vương đế, đôi dép của tiên tri, và tấm áo
của tư tế.
- Cây gậy
Cây gậy trong tay biểu trưng cho sức
mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành
sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ra đi với niềm tin
vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin mừng
cứu độ của Đức Kitô, chữa lành và thánh
hoá nhằm cải thiện đời sống, xua trừ
ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế
lực sự dữ.
- Đôi dép
Đôi dép là hình ảnh luôn lên
đường. Truyền giáo là ra đi. Đi để
mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân.
Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha "Như
Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em".
- Tấm áo
Người ra đi mang áo là mặc lấy
tâm tình Chúa Giêsu. Nhờ đó, các môn đệ làm cho
cuộc đời mình trở nên của lễ hiến dâng
hợp với hiến lễ Chúa Kitô.
Chúa Giêsu còn trao cho các môn đệ những
quyền năng của Ngài: quyền rao giảng, quyền
chữa bệnh, quyền trừ quỷ.
Với những hành trang như thế, Chúa
Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt
động Tông đồ không do tài lực của con
người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa.
2. Phương
thức hoạt động Tông đồ.
Sứ vụ loan báo Tin mừng không phải
là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc
của cộng đoàn, không phải là độc quyền
của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết
với nhiều người khác. Khi sai đi "từng
hai người một", Chúa Giêsu mong các môn đệ
hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn
hỏi nhau khi gặp khó khăn "Hai người có giá
trị hơn một, nếu họ ngã, người này
đỡ người kia dậy" (Gv 4,9). Hai
người làm việc chung, nâng đỡ nhau biểu
lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ
đặc trưng của môn đệ của Chúa (x. Ga
13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ sống
động và lôi cuốn người khác.
Trong Công vụ Tông đồ, các nhà truyền
giáo thường lên đường với nhau
"từng hai người một”: Phêrô đi với Gioan
(Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv
15,22)… Hoạt động Tông đồ luôn là tạo thành
nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng
về tình yêu. Chứng tá về tính hiệp nhất khi
gắn bó với Đấng đã sai mình, chứng tá
về tình huynh đệ khi nhận ra mình được
sai đi "từng hai người một”. Chứng tá
Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức
cộng đoàn trong Giáo Hội. Cuộc sống yêu
thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu
của người môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời
rao giảng sống động, hùng hồn nhất về
Tin Mừng.
Chúa Giêsu gọi các môn đệ và sai đi
truyền giáo. Giáo hội tiếp nối sứ vụ
được sai đi, đến với muôn dân. Ra đi
là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi
người với tinh thần đơn sơ, từ
bỏ và tự do, để loan báo tin vui và mang đến
cho họ ơn cứu độ.
Như thế, Tông đồ là người
lên đường chứ không phải xuống
đường. Lên đường là một tinh thần
nhạy cảm của Tin Mừng được thể
hiện qua lối sống gắn bó với sứ vụ.
Nhạy cảm với những thao thức của thời
đại để tìm đổi mới tư duy, nâng cao
tầm nhìn, nới rộng kiến thức, mong diễn
đạt Tin Mừng sát với ngôn ngữ hiện
tại. Nhạy cảm với nhu cầu của tha nhân
bằng muôn ngàn cách thể hiện lòng nhân ái vốn là
điểm sáng của giới luật yêu thương,
đồng thời là dấu hiệu dễ nhận ra
nhất của Tin Mừng cứu độ. Nhạy
cảm với Giáo Hội để tìm hiệp nhất.
Nhạy cảm với đồng nghiệp để tìm
huynh đệ nâng đỡ cộng tác. Nhất là,
nhạy cảm với Chúa để tìm thuộc về Ngài
mỗi ngày một hơn. Và dọc dài sứ vụ, tư
thế lên đường sẽ làm nên hình ảnh chứng
nhân 3.
3. Sứ vụ
Tông đồ là sống chứng nhân
Trao "Sứ vụ” cho các môn đệ, Chúa Giêsu
không bảo các ông “phải giảng điều gì". Ngài
chỉ căn dặn các ông những chi tiết
"phải sống". Đối với Chúa Giêsu, ra
đi làm chứng tá bằng cuộc sống quan trọng
hơn chứng tá bằng lời nói.
Trong Tông huấn "Loan báo Tin Mừng",
Đức Thánh Cha Phaolô VI quả quyết ít nhất hai
lần rằng, phương thức thứ nhất
để rao truyền Phúc Âm chính là làm chứng bằng
một cuộc sống Kitô hữu đích thực (x.
số 21 và 41).
Có ba cách làm chứng: nói, làm và sống. Hiệu
năng nhất là cách thứ hai và thứ ba. Ai cũng
biết nói thì dễ, làm khó hơn, và sống như mình nói
lại càng khó hơn nữa. Chính việc làm và đời
sống làm cho lời mình nói đáng tin hơn. Nhưng
cả khi người ta chưa nói hay không thể nói,
chưa làm hay không thể làm một số điều nào
đó, thì người ta đã có thể sống
điều mình xác tin và muốn chia sẽ.
Theo Đức Phaolô VI, làm chứng bằng
cuộc sống, bằng hành động cụ thể là
một cách rao giảng thầm lặng, không nghe
được, nhưng thấy được và rất
hữu hiệu, nhất là đối với con
người thời nay vì hai lý do: một là vì thời nay
(thời của khoa học thực nghiệm và của óc
thực tiễn), người ta nhạy cảm với
việc làm và dị ứng với lời nói và các học
thuyết, hai là vì trong thế giới trần tục hoá
ngày nay, như ở Việt Nam chẳng hạn, tôn giáo
bị đẩy ra bên lề như chuyện riêng tư,
thế nên không phải bất kỳ ở đâu và lúc nào
người ta cũng có thể, hay nên trực tiếp rao
giảng Tin Mừng. Năm 1937, Mahatma Gandhi, vị anh hùng
dân tộc Ấn Độ nói với các nhà truyền giáo:
"Hãy để cho đời sống các ngài nói với
chúng tôi như đoá hoa hồng không cần ngôn ngữ, mà
chỉ đơn sơ để cho hương thơm của
mình toả lan. Cả người mù không nhìn thấy hoa
hồng vẫn nhận ra được mùi thơm của
nó. Hãy để chúng tôi nghĩ tới sự cao cả của
nhân dân của các ngài khi họ toả hương thơm
đời sống. Đối với tôi, đó là tiêu
chuẩn duy nhất. Tất cả những gì tôi muốn
họ làm là sống đời Kitô hữu chứ không
phải chú giải nó".
Vậy để loan báo Tin Mừng thuyết
phục, người Kitô hữu phải sống thế nào
cho cuộc đời mình trở thành đáng tin.
Đới sống đáng tin thì tự nhiên lời nói
cũng đáng tin. Làm tông đồ, rao giảng Phúc Âm
đặc biệt thích hợp cho ngày nay là làm cho
đời sống Kitô hữu đáng tin. Như vậy toàn
bộ cuộc sống ta đều phải "làm
chứng": lời ăn tiếng nói, cách cư xử,
giao tiếp, trong gia đình, ngoài xã hội, khi làm việc,
khi vui chơi giải trí... Đối với người
có ý thức truyền giáo thì nhất nhất việc gì, khía
cạnh nào của đời sống họ cũng có
thể là lời loan báo. Lời trách nặng nề nhất
của người chưa biết Chúa đối với
tín hữu Công giáo có lẽ là: Người Công giáo các anh (các
chị) không mấy đáng tin; các anh (các chị) nói một
đường làm một nẻo. Đức tin, giáo lý nghe
thì thật hay nhưng không thấy đem lại cho xã
hội một cái gì thật sự tốt đẹp và
mới mẻ. Lời phê bình đó có lẽ là quá đáng
nhưng thiết tưởng ta chẳng cần cãi lý làm gì,
hãy coi đó như một lời nhắc nhở để
chúng ta nhìn lại cuộc sống "chứng tá"
của mình. Xã hội này đang suy thoái trầm trọng
về đạo đức: tham nhũng, thối nát,
dối trá, bất công, xì ke ma túy, sa đoạ... Ta có còn là
men, là muối, là ánh sáng nữa không? 4.
Cầu
nguyện
Lạy Chúa Giêsu,xin sai chúng con lên
đường nhẹ nhàng và thanh thoát,không chút cậy
dựa vào khả năng bản thân hay vào những
phương tiện trần thế. Xin cho chúng con làm
được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin
Mừng, trừ quỷ,chữa lành những người
ốm đau. Xin cho chúng con biết nói Tin Mừng với
niềm vui,như người tìm được viên
ngọc…. quý,biết nói về Ngài như nói về một
người bạn thân. Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công
và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt
lệ của bao người đau khổ thể xác tinh
thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin
dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin
tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.
Amen. (Mana).
--------------------------------------------------------
1. "Comment lire un
évangile?", Seuil, trang 103.
2. "Với cả
tâm tình", trang 117-120, ĐGM Giuse Vũ Duy Thống.
3. "Với cả
tâm tình", trang 121.
4. "Đạo trong
đời", trang 252-255, Lm Nguyễn Hồng Giáo.
|