Tự giải thoát và tự ràng buộc
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ
Phan Long)
1.- Ngữ
cảnh
Với 9,51, Tin Mừng Lc bắt đầu
mộtphân đoạn quan trọng và là phần thứ ba
của TM, đó là bài tường thuật chuyến đi
lên Giêrusalem, Thành định mệnh (9,51–19,28). Khác với
TM Mc, tác giả Lc nhiều lần nói rõ tên Giêrusalem ra trong
chuyến đi này (9,53; 13,22.33-34; 17,11; 18,31; 19,11, luôn luôn là
Ierousalêm, ngoại trừ 13,22, Hierosolyma). Ta nhận ra phân
đoạn này được coi là trọng yếu qua
việc tác giả nêu tên thành ra trong liên hệ với
việc Đức Giêsu “được rước lên trời”
(analêmpsis) và qua việc nhắc tới sự hoàn tất
(“Thời gian đã mãn, đến buổi Người siêu
thăng” – NTT). Nói cách khác, trong TM Lc, Đức Giêsu đi
từ Galilê lên Giêrusalem không qua Pêrê (như Mc và Mt), nhưng
Người chỉ nhắm thẳng tới Thành
định mệnh bằng cách băng ngang miền
đất tượng trưng cho sự đối
nghịch, đó là Samari.
Cuộc hành trình lên Giêrusalem (9,51–19,28) có
thể được chia ra làm bốn phần, ba phần
đầu của riêng TM Lc, mỗi phần được
đánh dấu bằng mộtlời nhắc đến
mục tiêu Giêrusalem; phần cuối có chung với các TMNL
khác, có câu kết nhắc lại mục tiêu:
(1) 9,51–13,21: bắt đầu bằng
“Người cương quyết lên đường đi
Giê-ru-sa-lem”;
(2) 13,22–17,10: bắt đầu bằng “Trên
đường lên Giê-ru-sa-lem”;
(3) 17,11–18,14: bắt đầu bằng “Trên
đường lên Giê-ru-sa-lem”;
(4)18,15–19,28: tương ứng với bài
tường thuật về hành trình của các TMNL khác;
kết thúc bằng “Nói những lời ấy xong,
Đức Giêsu đi đầu, tiến lên Giêrusalem”.
2.- Bố
cục
Bản văn có thể chia thành ba đơn
vị, mộtcâu mở với hai phân đoạn khá khác
nhau:
1) Mở: Hành trình lên Giêrusalem (9,51);
2) Sự đón tiếp tại mộtlàng
Samari (9,52-56);
3) Những đòi hỏi đặt ra cho ai
muốn làm môn đệ (9,57-62).
3.- Vài
điểm chú giải
- Khi đã tới ngày (51): dịch sát là
“việc làm đầy các ngày”. Tác giả đã tạo ra
công thức này để giúp hiểu là nay chương trình
của Thiên Chúa bắt đầu chuyển sang mộtgiai
đoạn mới trong tiến trình thực hiện.
- được rước lên (51): Analêmpsis có
nghĩa là “hành vi cất đi; sự nâng lên”.
- Người nhất quyết (51): dịch sát
“Người đanh/làm chai (stêrizein) mặt lại
để đi lên…”. “Mặt” trong văn chương Do
Thái chỉ cả con người. Ý nói là Đức Giêsu
cương quyết đối đầu với
định mệnh của Người, Người can
đảm thắng vượt nỗi sợ hãi. Ta nghe ra
được âm vang của Is 50,7. Nhưng cũng có
thể câu này nhắm tới sứ mạng của ngôn
sứ Êdêkien tại thành Giêrusalem (Ed 8–11).
- người Samari (52): dân cư Samari. Samari là
kinh đô của vương quốc phía Bắc do vua Omri
sáng lập vào khoảng năm 870 tCN. Sau này, tên gọi
“người Samari” (Hl. Samaritês) trở thành mộttên
gọi mang tính chủng tộc và tôn giáo để chỉ
những người cư ngụ trong miền đất
giữa Giuđê và Galilê, về phía tây sông Giođan. Sự
đoạn tuyệt giữa người Samari và
người Do Thái được giải thích khác nhau tùy
mỗi bên. Thường người ta cho rằng có sự
chia lìa đó là do có việc đế quốc Átsua
đưa người Do Thái đi lưu đày sau khi
chiếm được đất nước năm 722
tCN và đưa những người không phải là Do Thái
vào làm thực dân ở trong miền đó (2 V 17,24). Có
lẽ cũng do đó mà sau này những người ở
lại quê nhà đã phá những người Do Thái hồi
hương khi những người này xây lại thành và
Đền Thờ Giêrusalem (x. Er 4,2-24; Nkm 2,19; 4,2-9). Dù
thế nào, những người Samari chỉ chấp nhận
Bộ Ngũ Thư là Kinh Thánh và đã xây mộtđền
thờ trên núi Garidim (Tell er-Râs) vào thời Hy Lạp
(đền này đã bị phá hủy dưới thời
Gioan Hiếccanô, khoảng năm 128 tCN).
- vì Người đang đi về hướng
Giêrusalem(53): dịch sát là “mặt Người đang
hướng tới Giêrusalem”. Mục tiêu của cuộc
hành trình của Đức Giêsu chính là lý do khiến
người Samari từ chối đón tiếp Ngài.
- Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ
trời xuống thiêu huỷ chúng nó không? (54): Mặc
dù Lc dùng analôsai (aor. act. inf. analyô, “tháo gỡ; tiêu hủy”)
thay vì kataphagein (aor. act. inf katesthiô, “ăn ngấu nghiến,
thiêu hủy, phá hủy”) của Bản LXX, câu văn
vẫn là một lời nhắc rõ ràng đến 2 V 1,10
(hay 12). Các môn đệ muốn chia sẻ quyền lực
của Đức Giêsu để làm mộtphép lạ
trừng phạt.
- quay lại (55): xem cả 10,23; 14,25. Tác giả
cho thấy là Đức Giêsu dẫn đầu nhóm môn
đệ.
- quở mắng (55): Đức Giêsu sửa các
môn đệ vì các ông vẫn chưa hiểu sứ mạng
của Người nhắm điều gì (x. 9,45).
Người không chấp nhận cho người ta coi
Người là ngôn sứ Êlia, nhà cải cách được
ví với lửa. Người không chấp nhận phản
ứng theo kiểu thường tình loài người (x.
6,29).
- chôn cất cha tôi (59): Theo truyền thống
kinh sư sau này, bổn phận chôn cất cha mẹ qua
đời bó buộc với các na-dia (nazir), tư tế, và
cả với thầy thượng tế, cho dù tiếp xúc
với mộtthi hài thường được coi như
là cớ gây nhiễm uế (x. Ds 6,6-7; Lv 21,11).
- Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết
của họ (60): Câu này được giải thích
nhiều cách, nhưng dựa vào mộtcâu tục ngữ,
giáo sư J.A. Fitzmyer cho rằng ý nghĩa của câu này là
“Cứ để kẻ chết (về thiêng liêng) chôn
kẻ chết (về thể lý) của họ”.
- xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước
đã … Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau
(61-62): xem truyện ngôn sứ Êlia gọi Êlisa (1 V
19,19-21). Nhưng Đức Giêsu đòi hỏi hơn Êlia, vì
vị ngôn sứ còn cho phép môn đệ về từ giã bà
con thân thuộc, còn Đức Giêsu thì không cho phép.
4.- Ý nghĩa
của bản văn
* Mở: Hành trình lên Giêrusalem (51)
Câu mở với giọng long trọng
của bài tường thuật chuyến đi lên Giêrusalem
có ba điểm:
a) Thời gian Chúa Cha ban cho Con để
thực hiện chương trình của Người trên
trần gian đã đến lúc chấm dứt;
b) Đức Giêsu nhất quyết đi cho
tới Thành thánh. Người biết chuyện gì đang
chờ Người ở Giêrusalem. Người thấy
những đau khổ, cái chết và cả sự sống
lại đang đến gần. Ta nghe ra gợi ý xa xa
về cuộc hấp hối trong vườn Ô-liu. Khi
đến lúc, Người cắt đứt những liên
hệ với miền Galilê và cương quyết tiến
về Giêrusalem, hiên ngang đối diện với
định mệnh của Người;
c) “Người sai mấy sứ giả
đi trước”: Hẳn là tác giả Lc gợi
đến sấm ngôn thiên sai Ml 3,1, với ý nghĩa
Đức Giêsu chính là Đức Chúa (Yhwh), còn các tông
đồ là những sứ giả.
* Sự đón tiếp tại một làng Samari (52-56)
Cũng như sứ vụ tại Galilê
được dẫn nhập bằng mộttruyện
Đức Giêsu bị loại trừ (Lc 4,16-30), chuyến
đi lên Giêrusalem cũng được dẫn nhập
bằng mộttruyện như thế. Có một làng Samari
đã không đón tiếp Người vì Người lên
Giêrusalem, chứ không lên Garidim là nơi có đền thờ
của người Samari. Sự từ khước này không
làm cho lòng Người ra chua chát. Người quở
mắng hai môn đệ Giacôbê và Gioan vì các ông đã
đề nghị chuyện bạo lực. Người yêu
cầu người ta nghe Người, nhưng
Người để cho người ta tự do, chứ không
muốn ép buộc người ta phải đón tiếp
Người. Người không thể diễn tả
quyết định của Người ra bằng
những biện pháp hà khắc, bất kể hoàn cảnh
cụ thể của người khác.
* Những đòi hỏi đặt ra cho ai muốn
làm môn đệ (57-62)
Trên con đường này, Người
nhắc lại những điều kiện để
đi theo Người. Có ba người đến
để xin đi theo Người. Không biết là
điều gì đã thúc đẩy họ xin như thế.
Chắc chắn là họ đã bị Người thu hút,
nên muốn ở với Người. Chúng ta cũng không
biết là sau đó họ có thật sự đi theo
Người chăng. Nhưng chúng ta biết những hoàn
cảnh và những điều kiện cần thiết
để có thể đi theo Người.
Người thứ nhất diễn tả
mộttình trạng sẵn sàng vô điều kiện.
Đức Giêsu cho anh ta biết rõ điều gì đang
chờ đợi anh nếu anh bước theo
Người. Đặc điểm con đường
Người đang theo là những bất ngờ và sự
nghèo khó. Người không thể cung cấp sự an toàn và
tiện nghi nơi ăn chốn ở. Chính Người
đã cho thấy điều đó khi đi qua Samari:
Người lệ thuộc vào sự tiếp đón
của kẻ khác. Người chấp nhận bị
từ chối và lại bắt đầu tìm chỗ khác.
Người từ chối những tiện lợi của
mộtnơi ở cố định. Như thế
Người tự giải thoát khỏi dây ràng buộc
với mộtnơi cố định và trở thành hoàn toàn
tự do mà thi hành nhiệm vụ. Người cũng yêu
cầu kẻ muốn theo Người phải có sự
từ bỏ ấy, sự tự do ấy và dây liên hệ
ấy.
Hai người khác nêu ra các điều
kiện (chôn cất cha; từ giã người thân). Cho
cả hai trường hợp, Đức Giêsu không chấp
nhận những điều kiện ấy, trong đó luôn
liên hệ đến gia đình. Đức Giêsu cho thấy
rõ ràng là Người đòi hỏi người ta
bước theo Người vô điều kiện.
+ Kết
luận
Khi bước theo Đức Giêsu,
người ta không được nhìn lại đàng sau,
nhưng phải dứt khoát nhìn tới trước, nhìn vào
chính Đức Giêsu và tất cả những gì
được hàm chứa trong quan hệ với
Người. Không những trong lãnh vực của cải
vật chất, cả trong lãnh vực các tương quan
người với người, liên hệ với
Người đòi hỏi mộtsố những từ
bỏ đau đớn. Nhưng phải biết vấn
đề ở đây là gì: đó là gắn bó với
Người, phục vụ Người, sống thân tình
với Người. Phần Người, Đức Giêsu
đề nghị, nhưng luôn tôn trọng tự do của
từng người.
|