BÀI
LỜI CHÚA 69
VỀ danh dỰ
Trích sách 1 Ma-ca-bê, ch.1-2
Ở
đất Israen, khoảng hai thế kỷ trước
Chúa giáng sinh, là một thời tao loạn, vô đạo và
tàn ác. Đế quốc Hi lạp xâm lăng và đô hộ
đất Israen, họ đem các việc thờ bái
ngoại đạo và lối sống vô đạo du
nhập vào đất thánh của Thiên Chúa, hơn nữa,
họ bãi bỏ các luật thánh, tàn phá Đền Thờ và
cướp các đồ thờ bằng vàng và ngọc
quí... Khắp nơi đều vang tiếng rên la, than khóc...
Đáng buồn nhất là có nhiều người Israen
đã đâm hư đốn, chối bỏ lương
tâm và danh dự của người dân thánh vì sợ hãi,
sợ mất mạng, mất của cải... ; họ
đã chối bỏ đạo, hùa theo làm nhiều sự
dữ. Cũng may, còn có lắm người tỏ ra
biết tự trọng, ở mạnh mẽ, can
đảm, nhất định thà chết chứ không vi
phạm Giao ước thánh với Thiên Chúa.
Trong
số đó, có ông Mat-ta-thy-a cùng với 5 con trai can
đảm đứng lên chống lại. Ông tuyên bố :
- Cho đi tất cả các dân
tộc trong Đế quốc của Hoàng Đế
đều tuân lệnh ông ấy, mà chối bỏ việc
thờ bái của tổ tiên mình, tôi và con cái tôi, anh em tôi
đây, cứ bước đi trong Giao ước của
tổ tiên chúng tôi đã thề nguyền với Thiên Chúa.
Vừa nói các lời ấy
xong, thì ông thấy một người Do thái tiến lên bái
thờ tà thần trước mặt mọi người.
Mat-ta-thy-a thấy thế, thì bừng bừng cơn
nghĩa nộ, vì nhiệt thành với Thiên Chúa, ông lao mình
tới mà hạ sát tên ấy ngay tại chân bàn thờ...
Rồi ông lật đổ bàn thờ và hô lớn :
- Phàm ai nhiệt thành bảo vệ
Lề luật thánh và Giao ước, thì hãy ra đi theo tôi !
Ông
và các con ông đã chạy trốn lên núi lập chiến khu
và bỏ lại mọi sự họ có trong thành...
...Bấy
giờ, có nhiều nhóm người tận tình với
đạo thánh và tất cả những ai trốn lánh tai
họa cũng tìm đến gia nhập với họ...
...Từ đó, họ phát động
những cuộc du kích chiến đánh phá quân hi lạp vô
đạo..., cho đến ngày toàn thắng, đuổi
được quân xâm lược, dành độc lập và
tự do tôn giáo cho dân tộc họ.
* Đó là
Lời Chúa ! - Tạ ơn Chúa !
Suy
niệm Lời Chúa
Ông
Mat-ta-thy-a thật là một người đáng mọi
người tôn trọng, kính vì ! Cũng như Trần Bình
Trọng nước Nam ta, lúc ông khẳng khái bác bỏ
lời dụ dỗ của kẻ nghịch :
“Thà làm
quỉ nước Nam,
Còn hơn làm Vua đất Bắc
!”
hoặc lời
chí khí này của Trần Quốc Tuấn lúc thế giặc
cực kỳ quẫn bách :
“Nếu
Bệ hạ muốn đầu hàng,
hãy chặt đầu tôi
trước đã !”
Những người
ấy là những người trọng danh dự của
mình, mà không hề tỏ ra kiêu ngạo hay tự ái rởm !
Họ trung thành với Chúa, với tổ quốc quê
hương, không tham sinh úy tử, bán đạo, bán
nước cầu vinh... Họ không ngần ngại
liều mạng sống bênh vực đạo, bênh vực
công lý...
Đó
là bài học về danh dự, về danh thơm, về
tiếng tốt! Trong xã hội nhiễu nhương ta
đang sống ngày nay, hình như người ta đã bán
rẻ danh dự từ lâu rồi, chỉ vì nhu cầu sinh
sống thúc bách... Báo đài nêu ra nhiều trường
hợp rồi, đây chỉ lấy một ví dụ : vì
muốn có rủng rẻng tiền tiêu xài, may sắm… mà
nhiều cô gái đánh mất phẩm giá của
người phụ nữ, bán thân làm gái làng chơi… Luân lý
và đạo đức đã tuột dốc trầm
trọng. Đây chính là lúc Kitô hữu chúng ta nên dừng
lại suy nghĩ về danh dự, là nền móng của
cuộc sống trong xã hội, không có nó, xã hội sẽ suy
sụp.
Mà danh
dự lại là một ân huệ của Thiên Chúa. Bạn có
biết điều ấy không ? Quả thật, có
những ân huệ của Thiên Chúa mà chúng ta thường ít
khi nghĩ đến, chẳng hạn sức khoẻ. Có
sức khoẻ là ta có thể đi đây đi đó,
đi chợ, đi chơi phố, đi nhà thờ...,
thấy được bao cái hay, cái đẹp, cái lạ ;
có sức khoẻ, ta làm được bao việc tốt,
ích lợi cho gia đình, cho đồng loại... Chẳng
may, ngày nào tai nạn đến làm ta bị bệnh
hoạn, tật nguyền ghì chặt ta trên giường
hết năm này đến năm khác ; lúc ấy, ta
mới thấy Đức Mẹ nói đúng : “Không có Thiên
Chúa, các con không thể nhấc chân lên mà đi một
bước!”
Vậy, ta hãy bàn về DANH DỰ là ân huệ Thiên Chúa
ban, mà rất nhiều người trong chúng ta chỉ
nhớ đến khi đã đánh mất!
1/ Danh dự là gì ? Ta sẽ hiểu là gì khi thấy
một anh thanh niên trong khu xóm được chính quyền
khen thưởng huy chương lao động, hoặc
thấy đội banh quốc gia đoạt cúp vô
địch tại Thế Vận Hội, hoặc bố ta
được đắc cử vào Quốc Hội... Ta
sẽ hiểu rằng : chiếc huy chương, chiếc
cúp, hay chức dân biểu là những dấu hiệu bên ngoài nói lên cái lòng
người ta nhìn nhận
giá trị hoặc đức độ bên trong
của đương sự. Chẳng hạn
trường hợp anh thanh niên nói trên : Người ta nhìn
nhận bao công khó của anh : nào anh đã hết sức lao
động, đã xông pha đến những chỗ nào khó
khăn, nặng nhọc nhất, anh đi làm đúng
giờ, anh có sáng kiến cải tiến kỹ thuật cho
công trình được xúc tiến mau lẹ..., có lần
anh đã liều mạng sống để giữ vững
cái đập đang sắp bị nước lũ
cuốn phăng đi... Ai nghe nói về anh cũng
đồng thanh: “Thanh niên như anh, khó tìm được
người thứ hai!”. Biết bao cô gái ước mơ
được anh làm chồng mình. Những người
như thế, ta bảo họ được mọi
người ngưỡng mộ, yêu mến, trọng
nể : người ấy có danh thơm, tiếng tốt,
có danh dự.
2/ Nền
tảng của danh dự : Thoạt tiên, ta nghĩ danh dự của một
người nào là cái giá trị, cái đức độ
của riêng người đó, đã do cung cách sống
của họ tạo nên. Đúng ! Song người Kitô
hữu còn nhìn xa hơn : danh dự của con người,
trước hết là ân huệ của Thiên Chúa. Thật
thế ! Thiên Chúa, Đấng chói lòa thánh thiện và vinh
hiển, đã dựng nên loài người - một vật
yếu ớt giữa bao mãnh thú, nhỏ bé giữa vũ
trụ mênh mông - nhưng đã tạo dựng họ theo hình ảnh của Ngài :
Kinh Thánh ca ngợi :
“Lạy Yavê, Chúa chúng tôi !
Danh
Người uy linh dường bao trên khắp cõi trần !
Khi
tôi trông lên trời, do ngón tay Người làm ra,
trăng sao vằng vặc
Người đã định chỗ”.
So sánh
như vậy thì :
“Phàm nhân là gì để
Người nhớ đến ?
Con
người là chi để Người phải bận tâm
?”
Quả
thực, con người thật nhỏ bé và yếu ớt
trước tất cả vũ trụ, thế mà :
“So với thần linh,
Người đã dựng nên họ không thua mấy tí, Vinh
dự huy hoàng là triều thiên Người ban tặng cho
họ” (Tv 8.2-6).
Được
đặt lên địa vị vinh dự cao sang như
thế, nhưng con người sa ngã phản nghịch
đánh mất vinh dự huy hoàng của mình rồi ! Song Thiên
Chúa không bỏ con người tàn tạ trong hư hỏng
và nhục nhã. Một lần nữa, Thiên Chúa lại
đến nâng con người lên : Người sai Con
Một là Chúa Giêsu xuống tái tạo danh dự và vinh quang
cho con người, lần này một cách hiển hách hơn
trước. Công trình này không phải là việc chắp vá
một cái bình đổ vỡ, mà là một phép mầu, tái
tạo cho tốt đẹp, kỳ diệu hơn.
Chẳng thế mà Hội Thánh ca ngợi Thiên Chúa rằng: “Lạy Thiên Chúa là Đấng
tạo dựng con người cách lạ lùng, nhưng còn
tái tạo họ cách kỳ diệu hơn nữa”.
Trước
kia, được tạo dựng nên hình ảnh Thiên Chúa, nay thì nhờ Chúa Kitô, còn
được làm con
của Thiên Chúa, thông chia mọi vinh hiển, danh
dự, quyền năng của chính Con Một hằng
sống của Thiên Chúa là Chúa Giêsu phục sinh.
Như vậy, nếu con người nói chung - tự
bẩm chất do Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh
Người - đã đáng trọng kính, thì nay
được làm con Thiên Chúa, lại càng đáng trọng,
đáng kính, đáng vinh quang, vinh dự hơn nữa, khi
người đó sống trong ân nghĩa, tự do và yêu
thương. Do sự đó, nên Kitô hữu đáng kính trọng,
cho dù họ là một người nghèo, một người
thất học… Vậy giữa Kitô hữu với nhau, chúng
ta càng phải kính trọng nhau mới phải. Chính Thiên
Chúa Cha cũng tôn trọng người tin theo Đức
Giêsu : “Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ tôn
trọng người ấy.” (Ga 12.26).
Thế mà trong cuộc sống hầu như chúng ta
quên mất điều này, vì thế, trong gia đình, trong
giáo xứ, trong cộng đoàn…, chúng ta coi thường
nhau, nói hành nói xấu, chưa kể còn ghét nhau, hành hạ
nhau… Chắc ai cũng còn nhớ : cha của ông Ôrigênê,
một nhà thần học lỗi lạc thế kỷ
thứ 3, mỗi khi lại
gần nôi con, ông quì xuống vái lạy và hôn ngực con.
Với ai bỡ ngỡ, ông nói : “Con tôi, đã được
chịu phép Thanh tẩy, bây giờ nó là con Thiên Chúa, Chúa Ba
Ngôi ngự trong nó, sao tôi lại không bái lạy ?”.
3/ Danh dự
cần cho đời sống nhân loại : Tự
nhiên, ai cũng mong muốn được kính trọng,
đánh giá tốt bởi đồng loại. Không ai
muốn bị người khác khinh thường, phỉ
nhổ, chê bai. Người nào luôn sống trong mặc
cảm bị khinh chê, ghét bỏ, không thể sống
được, như thế kể như họ đã
chết ! Có anh thanh niên kia, mắc tật đồng tính bẩm
sinh, nên bị cha mẹ, họ hàng, bạn bè khinh chê,
rẻ rúng, tránh xa, ghét bỏ…Anh đến gặp linh
mục và hỏi tại sao Thiên Chúa lại sinh anh ra như
thế, khiến anh đau khổ và chỉ muốn tự
tử cho thoát nợ. Qua chuyện đó, ta mới thấy
danh dự là điều kiện cần thiết của
đời sống nhân loại. Kìa, ta nhớ lại cha ông
tổ tiên chúng ta, lúc đạo Nho còn thịnh hành,
Đức Khổng đã dạy cho biết sống sao cho
thành Trượng Phu, Quân Tử, tức là sống xứng
với địa vị mình : quân quân, thần thần,
phụ…, tử… : Vua sống cho ra vua, bầy tôi cho ra
bầy tôi, cha cho đáng mặt cha, con cho đúng
đạo làm con, dù cho có chết đi, danh thơm còn
để lại muôn đời trong sử xanh ! “Thà
chết vinh, còn hơn sống nhục !” Thánh Phaolô cũng nói
: “Vinh quang, danh dự và bình an,
cho người nào làm sự lành!” (Rm 2.10). Chỉ cần
nêu một ví dụ : Nhị thập tứ hiếu : 24
người con có hiếu được sử sách ghi
lại để ca tụng và làm gương cho
người đời sau.
Biết
bao người chỉ nghĩ đến danh dự mà
thấy có sức thúc đẩy để thực hiện
những việc anh hùng, vĩ đại. Ngược
lại, cũng có khối kẻ chỉ nhờ nghĩ
đến sự mất danh dự, đã dừng lại
trên con đường tội ác.
Một xã hội chỉ lành mạnh và văn minh,
một cuộc sống chỉ thật có tính người,
khi đàn ông tôn trọng đàn bà, cha mẹ tôn trọng con
cái, người trên trọng kẻ dưới,
người giàu không khinh khi người nghèo khổ... ; nói
tóm : người này tôn trọng người kia,
đồng loại mình, hình ảnh Thiên Chúa, dù đã là con
Thiên Chúa hay chưa.
Gia đình chúng ta đồng tâm nhất trí nhớ và
nhắc nhở nhau nhớ đến vinh dự Thiên Chúa
đã ban cho mỗi người chúng ta, và quyết chí không
bao giờ chà đạp nhau bởi những hành vi đê
hèn, nhuốc nha. Quyết chí chưa đủ, ta hãy tha
thiết cầu xin Thiên Chúa, Đấng đã ban cho ta danh
dự huy hoàng, chỉ thua kém thần linh một tí, cũng
ban thêm ơn cho ta gìn giữ nó.
Tích
truyện
Trên
đường chạy loạn, Hoa Hâm cùng đoàn tùy tùng
gặp một người lạ cũng chạy loạn,
năn nỉ xin nhập đoàn. Các tùy tùng đồng ý.
Chỉ có Hoa Hâm nói :
- Ta có mấy người, hiểm
nguy, may mắn, sướng khổ đùm bọc lấy
nhau. Bây giờ thêm một người nữa, liệu khi
hữu sự có lo cho người ta chu đáo không ?
Các tùy tùng
năn nỉ xin cho người lạ. Sau cùng Hoa Hâm cũng
thuận. Cả đoàn tiếp tục đi. Đi
được quãng xa, người lạ bỗng xảy
chân rơi xuống giếng. Đoàn tùy tùng sợ khó
nhọc và trách nhiệm phiền phức, nên bỏ mặc.
Hoa Hâm bất mãn nói :
- Đã nhận người ta cùng
đi, lúc người ta lâm nạn, bỏ người ta
sao đành ?
Ông liền ra lệnh cho tùy viên vớt lên, tìm cách
cứu chữa cho lành. Nhưng rủi, người ấy
ngộp nước và tắt thở. Hoa Hâm tận tụy
cho mai táng chu tất với lòng tiếc thương.
Hoa Hâm là người trọng danh dự : lúc
đầu ông không không muốn nhận cho người
lạ nhập bọn, vì sợ trong hoàn cảnh khó khăn
lúc đó, không lo cho người ta chu đáo. Đến khi
nhập bọn, người ấy gập tai nạn,
mọi người bỏ mặc, ông lại vì danh dự
một khi đã nhận giúp người ta thì phải giúp
cho trót.
RRR
|