Do Tế Lễ của
Đức Ki-tô hữu hiệu,
cho nên
chỉ dâng một lần là đủ đền tội và
vĩnh viễn thánh hóa nhân loại, đánh bại các
kẻ thù.
12 Còn
Đức Ki-tô, sau khi dâng lễ tế duy nhất
để đền tội cho nhân loại, Người
đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn
đời.13 Và từ khi đó, Người
chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm
bệ dưới chân.14 Quả thật, Người
chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn
làm cho những kẻ Người đã thánh hóa
được nên hoàn hảo.
15 Điều
đó cả Thánh Thần cũng làm chứng cho chúng ta
thấy. Quả thật, … Đức Chúa phán : … Ta sẽ
không còn nhớ đến lỗi lầm và việc gian ác
của chúng nữa. 18 Mà nơi nào
đã được tha tội, thì đâu cần lễ
đền tội nữa" (Dt 10.12-18).
Giải thích :
Bằng chứng về tế
lễ Đức Giêsu chỉ dâng một lần duy nhất
đã đủ “để
vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã
thánh hóa được nên hoàn hảo”, đó là “Người đã lên ngự bên
hữu Thiên Chúa đến muôn đời”, hiểu
như là Người được nghỉ ngơi, không
bao giờ còn phải dâng đi dâng lại nữa : “Nơi nào đã được
tha tội, thì đâu cần lễ đền tội
nữa". Không chỉ từng đó, Người còn
đánh bại các kẻ thù của Nước Chúa, và
chờ đợi ngày chúng phục xuống làm bệ chân
Người.
***
Sau khi học biết những
điều trên, chúng ta mới thấy :
Nếu
không có tế lễ đổ máu, việc cầu
đảo sẽ thất bại !
Ngày xưa, khi
ông Abraham nghe Thiên Chúa đến báo thành Sôđôm sẽ
bị tru diệt vì tội lỗi lớn lao thấu
trời, ông đã sấp mình xuống để “cầu
đảo”, van xin Thiên Chúa – (hiện hình thành một người đi cùng với hai thiên sứ
đến thăm ông) (xem hình) – “đảo” trừng
phạt thành tha thứ cho thành, nếu tìm được trong
đó có những người lành, vì chẳng lẽ Thiên
Chúa là Đấng chí công lại phạt người lành
phải chết chung với kẻ ác ? Nhưng phải có
bao nhiêu người lành để có thể vì họ mà Thiên
Chúa dung tha cho cả thành ? 50 ư ? Tìm không được,
ông xin bớt xuống 40, rồi 30, 20... và cuối cùng giá
chót là chỉ cần 10 người lành mà cũng không có. Thế là Sôđôm đã bị
hủy diệt bởi động đất,
bởi lửa diêm sinh thiêu đốt. (St 18.16 - 19.25)
Chỉ cần
tìm được 10 người công chính ngay lành, thì cả
ngàn vạn con người trong thành sẽ được
tha khỏi bị hủy diệt ! Vậy thử hỏi ai
ngay lành, công chính và thánh thiện hơn Chúa Giêsu Con Một Thiên
Chúa, và được nhìn nhận là “Đấng Thánh
của Thiên Chúa” (Mc 1.24; Lc 4.34; Ga 6.69) ? Không cần 10
người, 100 người hay cả chục vạn
người công chính, duy chỉ một mình Chúa Giêsu
Đấng Công Chính, là đủ thay thế cho tất
cả, và đặc biệt nhất là Người còn dâng
mình làm "lễ vật hy
sinh hương thơm ngạt ngào dâng lên (đẹp lòng)
Thiên Chúa" (Ep 5.2), cho nên có dư sức cứu
cả thế giới và cả ngàn thế giới khỏi
bị hủy diệt (1 Ga 2.1-2) !
Ông Abraham ngày
xưa cầu đảo cho dân thành Sôđôm khỏi bị
hủy diệt, song thất bại vì không tìm đủ
số 10 người công chính, ngày nay nếu không có Chúa Giêsu
– Đấng duy nhất Công chính và thánh thiện – và không có
Thánh Lễ, nơi Chúa Giêsu tế lễ đổ Máu mình ra
: “Đây là chén Máu Thầy, máu
Giao Ước mới và vĩnh cửu, đổ ra cho các
con và muôn người được tha tội”, tha
tội không những cho chúng ta mà còn cho cả thế gian (1
Ga 2.1-2), thì việc cầu đảo cho thế giới
cũng sẽ nếm mùi thất bại.
Ước gì
mỗi người Công giáo có được niềm tin vào
giá trị vô biên của Thánh Lễ trên bàn thờ, mà ra
sức dự Thánh Lễ để “cầu đảo” cho
nhân loại được cứu rỗi và
được bình an thái hòa... Đúng vậy, trước
một thế giới đang trượt dốc suy vong,
mà phần không nhỏ là tại lỗi làm gương
xấu và chểnh mảng lơ là của Kitô hữu chúng
ta, thì ngoài những việc đạo đức truyền
thống thường quen như cầu nguyện, lần
hạt, hy sinh hãm mình, đền tội v.v.., chúng ta sẽ
nhờ cách riêng đến Thánh Lễ để làm Lễ
Tế Cầu Đảo !
Danh từ ‘cầu
đảo’ nói đây
lấy từ phong tục cầu đảo của các dân
tộc Á Đông cách riêng. Thường thấy ngày xưa,
khi họ gặp những tai kiếp, đại nạn
như hạn hán mất mùa, ôn dịch, chiến tranh v.v...,
họ thường lập đàn cầu
đảo. Họ sẽ mời một đạo sĩ,
một cao tăng hay một người đức độ
cao cả trong dân làm thày tế lễ, giết trâu bò làm
của lễ dâng lên cho Trời, rồi thày tế lế
lễ cầm gươm xua trừ tà khí, hô phong hoán vũ
...
Đang khi ấy, dân chúng sẽ
tụ họp lại trên đám đất quanh “tế
đàn”, sám hối, ăn chay, nằm đất,
đêm ngày van vái kêu xin Trời đổi vận bĩ
của họ trở thành bình an thái hòa, cho dân đuợc
sống ấm no hạnh phúc.
Đã thấy
nhiều lần, những việc cầu đảo
của họ đã động thấu lòng Trời và
Trời nhậm lời đã ban cho họ được
như ý.
Trong Cựu
Ước cũng thấy có việc “cầu đảo” :
Nghe tin
một đạo quân thù địch đông đảo
đến vây đánh, Vua Giô- sa-phát hoảng sợ. Vua kêu
gọi toàn thể người Giuđa ăn chay, và
tập họp toàn dân lại kêu cầu cùng Chúa. Toàn
thể dân Giu-đa, kể cả đàn bà con trẻ,
đều đứng trước nhan ĐỨC CHÚA. Chính
Vua cũng đứng giữa cộng đoàn trong
Đền Thờ lớn tiếng cầu nguyện :
“Lạy Yavê Thiên Chúa, Chúa nắm trong tay uy quyền và
sức mạnh...Chúa đã ban cho dòng dõi Abraham đất
này, và trên đất này đã xây một Thánh điện
kính Danh Ngài... Nếu chẳng may chúng con gặp chinh
chiến, bị trừng phạt, gặp dịch tễ
hoặc đói kém, thì chúng con đứng trước
Đền thờ này đây, trước Nhan Ngài...trong
cơn cùng khốn, chúng con kêu lên Ngài, để
được Ngài lắng nghe và cứu giúp chúng con. Chúng
con chỉ biết ngước mắt nhìn lên Ngài.”
Thần Khí Yavê đáp xuống trên
một người trong dân và nói tiên tri rằng Thiên Chúa
đã nhậm lời, ông nói :”Các ngươi đừng
sợ... vì cuộc chiến này không phải là của các
ngươi nhưng là của Thiên Chúa. Trong cuộc
chiến này, các ngươi không phải chiến
đấu... cứ đứng mà xem Thiên Chúa, Đấng
ở với các ngươi, sẽ giải thoát các
ngươi như thế nào !”
Nghe vậy Vua và cả toàn dân sấp mình
xuống trước mặt Chúa mà thờ lạy.
Sáng mai dân xếp thành hàng trận và
đi vào sa mạc đối đầu với
địch quân. Thấy dân đi như thế, Vua
đứng ra và nói : “Toàn dân hãy nghe ta, Đức Yavê là Thiên
Chúa chúng ta, cứ tin
tưởng vào Người, các ngươi sẽ
tồn tại, cứ tin
lời các tiên tri của Người, các ngươi
sẽ chiến thắng !” Vua còn cắt đặt
những người mặc phẩm phục thánh, vừa
đi trước quân binh vừa ca hát ngợi khen Chúa : “Hãy ngợi khen Chúa, vì muôn
ngàn đời Chúa vẫn giữ trọn tình thương.”
Khi họ cất tiếng reo mừng và ca ngợi thì Thiên
Chúa gieo rắc những mâu thuẫn đối nghịch vào
giữa hàng ngũ quân địch, khiến chúng đâm ra
tự sát hại lẫn nhau. Khi tới một nơi cao
để có thể nhìn xuống sa mạc được,
quân binh Giuđa thấy đám địch quân bây giờ
chỉ còn là một bãi tha ma đầy tử thi nằm la
liệt trên mặt đất, không một tên nào sống
sót.
(Lược trích Sách Sử biên niên,
quyển II, 20.1-24 ; cũng xem Sách
1 Vua 8.22-53).
|