MỜI GỌI HOÁN CẢI – DỤ NGÔN CÂY VẢ KHÔNG TRÁI
(Luca 13,1-9 – CN III MC - C)
1.- Ngữ
cảnh
Đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay nằm trong phân đoạn độc đáo nhất của TM Lc (9,51–19,27): cuộc hành trình lên
Giêrusalem. Cuộc hành trình này trước tiên là một
chuyến đi đến cái chết: các lời loan báo Thương Khó song song với các TM Nhất Lãm khác đều nằm
trong phân đoạn này (Lc 18,31-34), nỗi khắc khoải của
Đức Giêsu trước “phép rửa” Người sắp phải
chịu (12,50), loan báo số phận của Người tương tự số phận các ngôn sứ (13,32-33), lời khẳng định Con
Người phải chịu đau khổ (17,25).
Tuy nhiên, chuyến đi này còn hàm chứa những yếu tố sư phạm như: a) Các lời dạy
về đời môn đệ: cầu nguyện (11,2-13; 18,1-8), từ bỏ
(12,51-53; 14,26-27), tiền bạc (12,13-30; 14,28-33…), làm chứng cho
Đức Giêsu (12,1-12), tỉnh thức trông chờ
Đức Giêsu trở lại (12,35-48); b) Và như
trong bài đọc hôm nay: lời kêu gọi lấy quyết định khi đối diện với Đức Giêsu và cuộc phán xét đang đến
(12,54–13,9; 13,22-30…).
Những câu truyện được kể trong đoạn TM hôm nay chỉ có trong TM Lc mà thôi.
2.- Bố
cục
Bản
văn có thể chia thành hai phần:
1)
Mời gọi hoán cải nhân các biến cố chính trị xã hội
(13,1-5);
2)
Mời gọi hoán cải qua dụ ngôn Cây vả không trái (13,6-9).
3.- Vài điểm chú
giải
- máu dổ ra hòa lẫn với máu tế vật (1): Bởi vì “tế vật” (thysiai) chỉ được dâng tại Giêrusalem, hẳn đây là những người đang có
mặt tại sân tư tế của Đền Thờ. Cũng có thể đây là dịp dâng chiên Vượt Qua.
Những người Galilê đây hẳn là các khách hành hương đã về Giêrusalem để dự lễ. Sự cố này không
được ghi lại trong bất cứ tài liệu nào
ngoài TM Lc. Sử gia Ph. Gioxép có
nói đến những sự cố sau: (1) Một cuộc tàn sát người Samari gần núi
Garidim (chứ không phải là “người Galilê”) bởi tay quan Philatô vào năm 35 sau
CN, và cũng không nói đến “tế vật” (x. Ant. 18.4,1 §86-87); (2) Quan
Philatô đưa các hình tượng của hoàng đế vào khiến các người Giêrusalem ái quốc đã nổi loạn (JW. 2.9,2 §169-174); (3) Quan
Philatô lấy quỹ Đền Thờ để xây một đường cống dẫn nước vào Giêrusalem (JW. 2.9,4 § 175-177), khiến người
“Do Thái” (chứ không phải là “người
Galilê”) bất mãn; (4) Vua Áckhêlao đã giết ba ngàn người tại Giêrusalem dịp lễ Vượt Qua (JW. 2.1,3 §8-13); (5) Vua Alexanđê
Giannê (103-76) đã giết sáu ngàn người “Do Thái” vì họ đã ném chanh vào ông
trong dịp mừng lễ Lều (JW. 13.13,5
§372).
Ta không biết đích xác là tác giả Luca đang ám chỉ đến biến cố nào. Tuy
nhiên, lịch sử cho biết Phongxiô Philatô làm
tổng trấn Giuđê từ năm 26 đến năm 36. Các tác giả Do Thái nhận định ông là con người
“không nhượng bộ và tàn nhẫn” (đây là câu vua Hêrôđê Ácríppa I viết
trong thư gửi cho hoàng đế Caligula,
được triết gia Philon ghi lại, x. Legatio ad Caium, 38).
- chịu số phận đó vì họ
tội lỗi hơn (2): Người Do Thái thường tin rằng các tai họa
xảy đến trong đời là kết quả của tội lỗi đã
phạm trong quá khứ (x. G 4,7;
8,4.20; 22,5; Xh 20,5c; Ga 9,2-3). Đức Giêsu không đặt vấn đề
về niềm tin này, nhưng lợi dụng cơ hội để kêu gọi hoán cải.
- tháp Silôác (4): Theo sử gia Ph. Gioxép,
có một cái tháp ở bức tường thứ nhất
của thành Giêrusalem cổ; tháp này ở phía đông quay
về hướng nam và nằm bên trên suối Silôác (JW. 5.4,2 §145). Nhưng nay thì chẳng
còn dấu tích gì về cái tháp này. Ph. Gioxép cũng không nói gì về tai nạn này.
- một cây vả trồng
trong vườn nho (6): Việc trồng cây vả
trong vườn nho có trong Mk 4,4. Có thể Đức Giêsu đang lấy lại một cách ví von
của Cựu Ước, coi cây vả là biểu tượng của
Giuđa hay Israel (x. Hs 9,10; Mk 7,1; Ge 1,7; Gr 8,13; 24,1-10).
- năm nay nữa (8): Thời gian ân huệ trước
khi mọi chuyện chấm dứt được diễn tả bằng hình ảnh “năm
nay”, nhằm nói lên sự giới hạn.
4.- Ý nghĩa của bản
văn
* Mời gọi hoán cải nhân các biến cố
chính trị xã hội (1-5)
Phân đoạn này là một truyện kèm lời công bố, do có lặp lại các câu hỏi
và bài học của Đức Giêsu.
Người Pharisêu dạy: “Không có
hình phạt nếu không có tội lỗi”. Nếu Thiên Chúa để cho một số người Galilê bị
giết là vì họ là những kẻ tội lỗi. Đức Giêsu đã được nghe kể về số phận của
những người Galilê đã bị quan Philatô giết. Đức Giêsu loại trừ mọi liên kết
giữa cái chết của những người Galilê ấy và tội lỗi của họ. Thay vào đó, Người
vận dụng biến cố để kêu gọi hoán cải. Người cũng nhắc lại cái chết của mười
tám người bị tháp Silôác đè, và kết luận rằng biến cố ấy là một thúc bách những người còn sống hoán
cải, canh tân đời sống, tức là lấy đức tin mà chấp nhận lời cứu độ của Thiên
Chúa được Đức Giêsu đến loan báo. Cái chết có thể đến gặp bất cứ người nào
cũng nhanh như đã gặp những người xấu số trên đây, bất cứ lúc nào: thậm chí
ngay đêm nay, “mạng sống” có thể bị “đòi” để chịu xét xử (x. Lc 12,20). Cần biết nhận ra một lời mời
gọi hoán cải.
* Mời gọi hoán
cải qua dụ ngôn Cây vả không trái ( 6-9)
Phân đoạn này là một dụ ngôn, nhưng không có một áp dụng minh nhiên (áp dụng hàm
chứa trong các câu 3 và 5). Dù sao, ta vẫn
có thể coi đây là một dụ ngôn về lòng thương xót hoặc
thậm chí, một dụ ngôn về “khủng hoảng”, chứa
một lời mời gọi hoán cải trước khi
quá muộn, lúc đầu được ngỏ trực tiếp cho những người
đồng hương của Người. Nhưng rồi bài cũng được gửi cho các Kitô hữu phải đối diện với viễn tượng là một kết cục cuộc sống bất
ngờ.
Bài dụ ngôn này nhắc nhớ bản chất
“nguy kịch” của cuộc sống con người: lúc này là giờ cuối cùng, thời gian ân
huệ cuối cùng trước khi chịu phán xét. Cây vả không trái trở thành biểu tượng
của một cuộc sống con người không sản sinh hoa trái thiêng liêng. Như một nối tiếp vào những lời nói của
Đức Giêsu mời gọi canh tân đời
sống, bài dụ ngôn đưa ra một “mũi nhọn” mang tính răn đe. Những người Galilê
hẳn là đã chết vì sự độc ác của vài người, mười tám người Giêrusalem hẳn là đã
chết vì không may (có mặt tại chỗ không nên vào giờ không đúng), nhưng con
người không biết đón nhận lời Đức Giêsu kêu gọi sẽ chết chắc chắn vì không
hoạt động và không sinh hoa trái. Cái lỗi do sự trì trệ ươn ái của chính mình
thì trầm trọng hơn cái điều tệ hại là chết vì tay của ai khác hoặc vì tai họa
bất ngờ.
+ Kết luận
Trước các biến cố, Đức Giêsu cung cấp một giải thích mang tính tôn giáo
để mời gọi các thính giả suy nghĩ: thời cuối cùng đã bắt đầu, những gì đang
xảy ra trong thời gian này chỉ là
một gợi ý về thời điểm chấm dứt mọi
sự. Do đó, mỗi người phải lấy lập trường đúng đắn. Cũng như Gioan Tẩy Giả,
Đức Giêsu công bố rằng cần phải hoán cải,
đừng có trì hoãn, bởi vì thời gian mỗi người đang có đã là thời gian triển hạn
rồi. Lời Đức Giêsu còn mang tính cấp bách hơn, bởi
vì Người là chính là Đấng mà Thiên Chúa đã giới
thiệu trên núi cao là “Con Ta”, và mời chúng ta “hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).
5.- Gợi ý suy
niệm
1. Giải thích các biến cố là
một việc rất tế nhị, nhất là khi biến cố ấy gây tai họa cho người khác chứ
không phải cho chính ta. Đọc cho ra ý nghĩa các “thời điềm” (= dấu chỉ thời
đại) là việc phải làm trong tinh thần siêu nhiên, dưới sự
soi sáng của Chúa Thánh Thần, và với tinh
thần Giáo Hội. Chỉ khi đó, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa của các “thời điềm” đó và chọn
cho mình một lập trường tương ứng,
cũng như giúp người khác chọn lựa đúng đắn.
2. Có những người
chủ trương rằng bạo lực là phương thế duy nhất để tái lập công lý. Thật ra,
sức mạnh chẳng bao giờ đưa lại điều tốt, chẳng bao giờ giải quyết được các vấn
đề; nó chỉ làm phát sinh những vấn đề mới nghiêm trọng hơn. Đức Giêsu không
muốn dính líu với những người cứ nguyền rủa chửi thề. Người không vô cảm trước
đau khổ hoặc các tai nạn hay nỗi bất hạnh, nhưng Người biết rằng hận thù, giận
dữ và trả thù chỉ làm cho các vấn đề thêm trầm trọng.
3. Có những Kitô
hữu suy nghĩ như người Pharisêu, cho rằng may mắn và sức khỏe là những phúc
lành Thiên Chúa ban cho người tốt, còn đau khổ là một sự nguyền rủa Ngài giáng
xuống kẻ ác. Không phải thế! Quả thật, có điều xấu do con người xấu gây ra, có
những điều xấu xảy ra do sự thiếu quan tâm. Nhưng mưa không thuận gió không
hòa, hỏa hoạn, tai nạn, bệnh tật, là những điều ta không được đổ cho Thiên
Chúa. Chúng xảy ra vì thế giới chúng ta là như thế. Dù vậy, không có điều gì
xảy ra mà ở ngoài chương trình của Ngài. Không biến cố nào, tốt hay xấu, tình
cờ hay có kế hoạch, mà vuột khỏi tình yêu của Ngài. Ngài để cho vũ trụ đi theo
dòng sinh hoạt của nó, cho thiên nhiên vâng theo luật lệ của chính nó. Ngài
cho phép người ta tự do hành động và điều hành các vấn đề sao cho ngay cả
những chuyện xấu vẫn đưa đến một điều tốt.
4. Theo dụ ngôn Cây vả không
trái, chúng ta hiểu rằng mình dường như vẫn
đang làm cho Chúa Cha (= chủ vườn nho) phải thất
vọng, vì đã phí phạm bao nhiêu ân huệ cao quí Ngài ban cho. Và thời gian
chúng ta còn đang có trước mắt chính là
một “thời gian gia hạn”. Người biết
suy nghĩ thì biết cách tận dụng “thời gian gia hạn” cho ích lợi, khi mà mình
đã phung phí thời gian dài đã có trước đây. Một sự phung phí như thế cũng rất
có thể đã gây ảnh hưởng tiêu cực trên những người khác.
5. Hôm nay chúng
ta vẫn có một Đấng chuyển cầu có thế
giá trước nhan Chúa Cha, đó là Đức Giêsu. Người vẫn đang xin Chúa Cha ban thêm
ơn cho chúng ta, vẫn xin Chúa Cha “triển hạn” để chúng ta có thể sinh hoa quả
xứng với tình thương của Chúa Cha. Lẽ nào chúng ta có thể tiếp tục lạm dụng
tình thương cao vời đó mãi?
6. Mùa Chay
là thời điểm thích hợp để suy xét xem liệu chúng ta có chậm trễ
đưa ra những thay đổi quan trọng trong đời sống của mình hay không. Dụ ngôn
cây vả không sinh trái gợi lên một dấu chỉ của niềm hy vọng. Cây vả được cho
một năm hồng ân nữa; thêm một cơ hội, với sự chăm sóc chu đáo và tận tình hơn
hầu có thể đơm bông kết trái. Tuy nhiên, vẫn còn đó một lời cảnh báo khắc
nghiệt là nếu không sinh hoa trái thì nó sẽ bị chặt đi. Mùa Chay nhắc nhở về
lòng nhân hậu của Thiên Chúa luôn dành cho chúng ta và ta có đủ thời gian để
đón nhận lòng nhân hậu ấy, và tiếp đó phải thực hiện những đổi mới quan trọng
để sắp xếp lại cuộc đời của chúng ta. Tuy vậy, nếu chúng ta không hành động
trong thời hạn được trao này thì sẽ phải lãnh một hậu quả bi thảm. Ngày cuối
cùng sẽ ập đến bất ngờ với bất kỳ ai trong chúng ta.
Lm FX Vũ Phan
Long, ofm
|