Chúa ăn chay và bị cám dỗ
(Trích trong ‘Suy Niệm
Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Có một nhà thần bí nọ trở
về thành phố sau một thời gian dài sống trong sa mạc, bạn bè và người thân vây xung
quanh rối rít hỏi thăm và xin ông tả lại cho
họ nghe về kinh nghiệm mà ông đã có về Thiên Chúa.
Ai cũng hỏi: "Thiên Chúa ra sao?".
Nhưng làm sao ông có thể diễn tả kinh
nghiệm của tâm hồn bằng lời nói
được. Bị gạn hỏi mãi, sau cùng ông
đưa ra cho họ một công thức thật mơ
hồ và bất toàn, với hy vọng khiến cho ai đó
không được thỏa mãn, với câu hỏi
"quyết định tìm vào sa mạc sống kinh
nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa" như mình. Mọi người mừng rỡ ghi chép công
thức ấy và biến nó trở thành một văn
bản thánh. Họ buộc mọi người
phải thuộc bản văn đó như Kinh Tin Kính, và
không nề quản hy sinh gian khó vượt trùng
dương để loan báo cho các dân, các nước công
thức ấy. Và có người trong bọn
đã hy sinh cả mạng sống cho công tác loan truyền
này nữa. Nhưng không ai tìm
được cho mình kinh nghiệm sống về việc
gặp gỡ Thiên Chúa cả. Đó là điều
khiến cho nhà thần bí nọ vô cùng buồn sầu và
hối hận, và ông đã thầm nghĩ rằng: Thà
đừng nói gì cả có phải hay hơn không?".
Anh
chị em thân mến!
Thiên Chúa không phải là một văn
bản, mà là một bản vị, một nhân vật
sống động có các liên hệ thân tình với loài
người. Đó là sứ điệp mà các bài đọc Chúa
Nhật I Mùa Chay hôm nay đề cập đến.
Sách
Đệ Nhị Luật (26,4-10) là bản văn đúc
kết niềm tin của dân Do Thái vào Thiên Chúa mà học
giả Beinha Fuegat gọi là kinh tin kính lịch sử
của Israel. Nó diễn tả kinh nghiệm của cuộc
gặp gỡ giữa dân Do Thái và Thiên Chúa trong thời khai
sinh ra lịch sử của họ. Trong cuộc Xuất
hành khỏi Ai Cập, vào khoảng năm 1250 (trước
tây lịch) dân Do Thái mới ý thức được
họ là một dân tộc bao gồm 12 chi họ khác nhau,
dưới sự lãnh đạo của Môisê, họ
cảm nhận được các mối dây liên hệ
với nhau. Cho tới lúc đó, họ chỉ có một ý
thức dân tộc mờ nhạt, biết mình thuộc
về chi họ này, chi họ kia,
giữa dòng giống Do Thái và sống riêng rẽ nhau.
Nhưng họ chưa có ý thức quốc gia, nghĩa là
chưa có ý thức về mình như là một dân tộc có
chủ quyền, có tổ chức, có ý thức về mình
như là một dân tộc có chủ quyền, có tổ
chức, có đất nước và một mệnh lệnh
chung. Nhờ có biến cố Xuất Hành, người Do
Thái mới ý thức được rằng: Họ là
một dân tộc thực sự, và Giavê Thiên Chúa của cha
ông tổ tiên họ trước hết là Đấng
đã giải phóng họ khỏi kiếp sống nô lệ
ở Ai Cập.
Kinh
nghiệm về Thiên Chúa giải phóng ấy được
cô đọng lại trong một công thức tuyên xưng
lòng tin của họ vào Thiên Chúa. Hình ảnh Giavê Thiên Chúa
như là Đấng Tạo Hóa chỉ có về sau này, khi
Israel suy tư về nguồn gốc con người và
vũ trụ vạn vật, hay nói cách khác những gì
được nhắc đến trong kinh tin kính trên
đây của sách "Đệ Nhị Luật"
đều là kết quả các kinh nghiệm của
cuộc gặp gỡ sống động của dân Do Thái
với Thiên Chúa. Chúng được làm khung
trong bối cảnh của lễ nghi phụng tự dâng
tiến lên Thiên Chúa các hoa trái đầu mùa. Khi cử
hành các lễ nghi phụng tự là dân Do Thái sống trở
lại kinh nhgiệm gặp gỡ Thiên Chúa trong suốt dòng
lịch sử dài của họ kể từ thời các tổ
phụ. Các biến cố ấy giờ
đây được trở thành nền tảng niềm
tin của họ.
Phụng
vụ là cách thế nhắc nhớ dân Do Thái biết các
điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm để
giải phóng và cứu thoát, hướng dẫn che chở
họ trong dòng lịch sử. Chính vì thế,
tiếng Do Thái dùng để dâng lễ vật đầu
mùa gọi là lễ "tưởng nhớ". Sự kiện toàn dân mang lễ vật đầu
mùa tiến đến với Thiên Chúa là diễn tả cách
đáp trả liên lỉ lời kêu mời của Thiên Chúa.
Đây
là cách thế mà dân Do Thái xưng tụng Thiên Chúa là
Đấng đã tạo dựng nên họ, chọn lựa
họ, giải phóng họ khỏi Ai Cập và đưa
họ vào miền đất hứa, nơi họ đang
sinh sống. Đối với Israel thì Thiên Chúa tạo Hóa là
Thiên Chúa của biến cố Xuất Hành, Đấng trao
ban cho họ miền đất hứa và sẽ gửi
Đấng Cứu Thế đến. Bàn tay tạo
dựng của Ngài cũng là bàn tay và cánh tay của
Đấng quyền uy giải phóng họ khỏi kiếp
sống tôi đòi bên Ai Cập, và hướng dẫn
chở che họ trong 40 năm lang thang trong sa mạc
để tiến về miền đất hứa. Bàn tay ấy giờ đây cũng giang ra đón
nhận những hoa trái đầu mùa mà dân Do Thái tiến
dâng lên Ngài. Những hoa trái nảy sinh từ lòng đất
mà Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ phụ Abraham và dòng dõi
ông là chính họ.
Việc
cử hành phụng vụ như thế trở thành
thời điểm, trong đó các hành động riêng
rẽ của Thiên Chúa đã chiếm hữu, sắp
xếp, thống nhất trở lại cho có thứ tự
lớp lang và giải thích như là các hành động
cứu độ, chứ không phải chỉ là lịch
sử các biến cố tầm thường, vô nghĩa.
Qua
trình thuật Chúa Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc (Lc 4,1-13) thánh sử Luca muốn cho chúng ta
thấy Chúa Giêsu khai mào một cuộc xuất hành mới
là giải phóng loài người khỏi ách thống trị
của Satan, của sự dữ, của tội lỗi,
các chước cám dỗ của chúng, và cái chết như
là hậu quả cay đắng cuối cùng của vòng xích
oan nghiệp ấy. So sánh với tường thuật cám
dỗ của Phúc Âm thánh Mathhêu, chúng ta thấy tường
thuật của thánh Luca có ba đặc điểm sau
đây:
1. Vai trò
của Thánh Thần trong cuộc đời Chúa Giêsu. Tất cả mọi thời
điểm quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu
đều được ghi dấu bởi sự hiện
diện của Chúa Thánh Thần. Đối với thánh
sử trong kinh nghiệm Phục Sinh và trong lịch sử
của Giáo Hội, Chúa Thánh Thần không phải là sức
mạnh như diễn tả trong Kinh Thánh Cựu
Ước, mà là một bản vị, là Đấng
hướng dẫn cuộc đời Chúa Giêsu và hoạt
động trong lòng thế giới. Chính Ngài đã dẫn
đưa Chúa Giêsu vào sa mạc và trợ
lực Chúa Giêsu trong cơn thử thách nơi sa mạc. Chúa
Giêsu đã bị cám dỗ từ bỏ con đường
khổ giá mà Thiên Chúa Cha đã vạch ra, để đi theo một con đường khác hấp
dẫn hơn, ngoạn mục hơn và dễ dàng hơn.
Chúa Giêsu
phải chọn con đường nào đây? Dùng quyền năng cứu thế
của mình thỏa mãn các nhu cầu vật chất và
hiện sinh, như biến đá sỏi thành bánh mà ăn,
chứ không cần phải lao nhọc vất vả hay
sống theo luật công bằng hoặc tinh thần liên
đới chia sẻ làm gì; hay là dùng các phép lạ cả
thể để lôi kéo tín đồ cho nó mau lẹ và
kết quả, chứ tội gì mà phải khổ nhọc
rao giảng gieo vãi hạt giống vào tâm hồn con
người và thôi thúc họ đối chiếu cuộc
sống hằng ngày với giáo huấn sự thật làm
gì. Hoặc dùng bạo lực và mọi
thứ sức ép vật chất và tinh thần để
lôi kéo đông đảo môn đệ và tín đồ.
Đủ mọi thứ cám dỗ, nhưng
Chúa Giêsu đã chọn lựa con đường khổ
đau. Đối với thánh Luca thì chiến
thắng của Chúa Giêsu trên các chước cám dỗ
trước ngày công khai loan báo Tin Mừng nước
trời, báo trước cho biết chiến thắng sau
cùng của Chúa Giêsu khi chịu chết treo trên Thập Giá.
2.
Đặc điểm thứ hai trong trình thuật Phúc Âm
của thánh Luca là vai trò quan trọng của thành Giêrusalem. Toàn Phúc Âm thánh Luca trình bày cuộc
đời Chúa Giêsu như là một cuộc lữ hành
tiến về Giêrusalem, nơi Chúa Giêsu sẽ thực
hiện công trình cứu chuộc trần gian qua cuộc
tử nạn, cái chết và sự Phục Sinh của Ngài.
Do đó, thánh sử Luca đặt cám dỗ thứ ba trong
bối cảnh thành Giêrusalem, nơi ơn cứu độ
được thành toàn. Do đó không có chương
ngại nào kể cả các chước cám dỗ mà ma
quỉ được phép cản trở hành trình ấy
của Chúa Giêsu.
3. Sa
mạc: trong sa mạc của cuộc Xuất Hành xưa
kia, dân Do Thái đã lẩm bẩm kêu trách Thiên Chúa. Họ đã ngã thua trước cám dỗ và
khước từ Thiên Chúa là Đấng giải phóng minh.
"Lẩm bẩm" là từ Kinh Thánh
Cựu Ước dùng để diễn tả thái
độ chống lại Thiên Chúa, phản đối Ngài.
Họ muốn gợi ý cho Thiên Chúa phải
hành động thế nào để giải phóng mình.
Trong sa mạc, Chúa Giêsu đã không
nhượng bộ mà nghe theo lời ma quỉ cám dỗ,
hay theo cách thế nó đề nghị. Mặc dù đói khát
và khổ sở, Chúa Giêsu vẫn luôn vững tin vào lòng yêu
thương quan phòng ấp ủ của Thiên Chúa Cha, mà không
đòi yêu sách là phải trông thấy các dấu chỉ
cụ thể của tình yêu thương quan phòng ấp
ủ, như diễn tả bằng lương thực,
của cải giàu sang, chức quyền và thành công trong
đời.
Trong
thư gởi tín hữu Rôma (Rm 10,8-13),
thánh Phaolô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Kitô
Phục Sinh mà khẳng định với chúng ta rằng:
"Mọi người đều có thể đạt
được ơn cứu độ". Điều
kiện duy nhất là tin nhận Chúa Giêsu Kitô, là sống Tin
Mừng cứu độ của Ngài mỗi ngày trong
đời. Hãy để cho lòng tin vào Chúa Giêsu đâm
rễ sâu trong tâm trí chúng ta. Hãy biết
nghiền gẫm Lời Chúa. Hãy để cho Lời
Chúa thánh thót nhỏ giọt trong con tim,
trong tâm trí chúng ta và uống lấy Lời ấy. Hãy dành cho Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể
của Thiên Chúa một chỗ nhất trong tâm trí chúng ta và
hãy thực thi giáo huấn của Chúa trong đời.
Một
khi đã thấm nhuần Tin Mừng của Chúa, chúng ta hãy
tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, và đem
hết nghị lục rao truyền Chúa Kitô và Lời Ngài cho
mọi người khác. Và cách tuyên xưng lòng tin hữu
hiệu nhất, trước hết và bây giờ cũng là
gương sống cụ thể của chúng ta.
|