Sứ vụ.
Người xưa thường nói:
“Vạn sự khởi đầu nan”. Điều
này cũng đã xảy ra ngay khi Chúa Giêsu khởi đầu
sứ vụ rao giảng công khai của Người
tại hội đường Nagiarét, nơi sinh
trưởng của Người. Thành công vừa
mới chớm nở, thì khó khăn, thử thách, không
mời đã chợt ập đến, không chịu
uốn mình chiều theo những toan tính
vị kỷ của những người đồng
hương, Chúa Giêsu đã bị chống đối
khước từ, thậm chí họ muốn thủ tiêu
Người. Dẫu sao, Chúa vẫn dũng mạnh thi hành
sứ vụ của Người bằng một trái tim rộng mở, luôn đập những
nhịp đập của yêu thương.
Thánh Luca đã ghi lại trong Tin Mừng
hôm nay. Sau khi nghe Chúa Giêsu đọc
và giải thích đoạn sách của tiên tri Isaia, những
người trong hội đường xì xầm với
nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?”.
Có lẽ, câu nói này không diễn tả một
thái độ nghi ngờ, trần tục hóa sự thiêng
liêng cao cả của Đức Giêsu, bởi vì họ vừa
mới chăm chú lắng nghe và thán phục những
lời thốt ra từ miệng Người. Đúng hơn, câu nói đó như diễn tả
một sự toan tính đầy ích kỷ, tư lợi
của những người đồng hương
với Chúa. Họ mang một tâm tính vốn rất
thường gặp ở đời: “Một người
làm quan cả họ được nhờ”. Nếu
người này là con ông Giuse, bây giờ trở thành tiên tri
và làm được các phép lạ, vậy tại sao chúng ta
lại không lợi dụng địa vị đó để
mưu ích cho thôn xóm, bản làng của mình. Câu ngạn
ngữ Chúa Giêsu trưng dẫn để nói với họ:
“Thầy lang ơi! Hãy chữa lấy mình” cho
thấy, họ muốn Chúa hãy làm cho họ hưởng các
phép lạ trước rồi sau đó mới cho
người khác được hưởng. Họ
muốn đưa ra một tối hậu thư
bi đát ép Chúa phải phục vụ họ trước. Vậy Chúa Giêsu đã xử trí thế nào
trước thái độ hẹp hòi của họ.
Biết rõ đầu óc cục bộ
địa phương, còn nhiều ganh tỵ, mang
đậm tính mầu cờ sắc áo Nazareth của
những người đồng hương như thế,
Chúa Giêsu muốn từ chối ràng buộc ơn cứu
độ của Người trong mối liên hệ máu
mủ thân quen nên Người đã nói rõ ý định
của Người: “Tôi bảo thật các ông, không một
tiên tri nào được chấp nhận tại quê
hương mình”. Nghĩa là, vị tiên tri không
có tình cảm ưu ái với những người
đồng hương hơn những người xa
lạ. Chúa đã trưng dẫn hai vị tiên tri
lớn trong Cựu ước là Elia và Elisa đã có
những hoạt động vượt ra ngoài ranh giới
tôn giáo cũng như lãnh thổ, để từ chối
không ban cho những người Nazareth, mà cả dân tộc
Israel độc quyền chiếm hữu ơn cứu
độ. Ý thức mình là dân riêng Chúa
chọn, nên người Do thái không thể tưởng
tượng được một Đấng Cứu
thế được Thiên Chúa sai đến lại lưu
tâm đến dân ngoại là người tội lỗi,
hơn là ghé mắt chiếu cố đến họ. Chính điều này đã khiến họ tức
giận. Họ lôi Người ra
khỏi thành và xô Người xuống vực. Tuy
nhiên, thánh Luca đã ghi lại: “Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi”. Nghĩa
là, Chúa vẫn bình tĩnh thi hành sứ vụ trước
thái độ “được ăn cả, ngã về không”
hay “không ăn được thì đạp đổ”
của họ.
Thái độ hẹp hòi của
người Nazareth và phản ứng của
Chúa Giêsu như thế có giúp chúng ta rút ra bài học gì cho
cuộc sống hôm nay không?
Trong cuộc sống, người tín
hữu nếu không tỉnh thức, không xét mình đấm
ngực hằng ngày và không thắp lên trong tim
ngọn lửa truyền giáo sẽ dễ trượt theo
“vết xe đổ” của những người Do thái
thời xưa.
Tự hào mình thuộc dòng dõi đạo
gốc lâu đời, được rửa tội,
được hưởng nền giáo dục và
đời sống ơn thánh, dễ làm cho người Công
giáo có cảm tưởng, Thiên Chúa thuộc về
người Công giáo và phục vụ cho người Công
giáo. Và điều này dễ dẫn đến khuynh
hướng đóng khung giam hãm Thiên Chúa để
độc quyền chiếm hữu Chúa Kitô và ơn cứu
độ của Người hơn là chia sẻ cho
những anh em chưa được biết Chúa.
Có thể nói khuynh hướng này là
“Tội thứ nhất, tội của những
người được soi sáng mà không sáng tỏa ra. Họ biết ý nghĩa của cuộc sống,
biết hướng đi, biết những điểm có
nước, những trạm có xăng dầu nhưng
họ không chỉ dẫn cho ai”. Thế
nên, thay vì là những rào cản, sẽ tốt hơn,
đẹp hơn, ý nghĩa hơn nếu mỗi
người trở nên những nhịp cầu dẫn
đưa người khác đến với Chúa. Đừng vô tình tự nguyện biến mình thành
một trở lực, nhưng hãy cố tình biến
đổi thành một trợ lực cho tha nhân.
Một nhà thần học rất
nổi tiếng người Đức là cha Karl Rahner có
một ý tưởng rất đáng cho chúng ta lưu ý. Ngài
nói: “Một cách nào đó, tất cả chúng ta đều là
những Kitô hữu ngoại đạo; trong số
những người Công giáo, không phải tất cả
đều thực sự là con cái của Nước
Trời. Bao nhiêu kẻ xem ra ở bên ngoài
thực sự lại ở trong, còn những người
bẩm sinh là công dân Nước Trời thì sẽ bị ném
vào nơi tối tăm dầy đặc”.
Vì thế, sứ mạng loan báo Tin
Mừng đòi hỏi chúng ta phải cố gắng khám phá
“những người ngoại có tâm hồn Kitô hữu”. Họ là những người ở gần Thiên
Chúa mà không hay biết. Họ bị bóng tối vị
kỷ của chúng ta làm che mất ánh sáng. Tuy
nhiên, không thể có tâm hồn truyền giáo nếu không có
đức ái. Không phải vô tình mà thánh Phaolô đã dùng
tới 10 lần chữ “đức ái” trong bài đọc 2
để nhấn mạnh đức ái là nhân đức
tuyệt đối cần và quí trọng nhất. Người loan báo Tin Mừng cần phải có và
cầu xin hơn cả, vì đây chính là con đường
hoàn hảo.
Có lẽ là không quá cường
điệu khi nhà bác học Pascal nói rằng: “Tất
cả mọi vật chất gộp chung
lại, cộng với tất cả mọi tinh thần
gộp chung lại, cộng với tất cả mọi
sản phẩm của hai thứ đó gộp chung lại,
cũng không có giá trị bằng một chút bác ái. Đó là một trật tự khác hẳn, vô cùng
cao cả hơn”.
Ước chi “vết đen” của
những người Nazareth thời xưa không lập
lại và trở thành “phách mạnh” trong đời sống
chúng ta, nhưng chớ gì tấm gương đời
sống của Chúa hôm nay giúp chúng ta ý thức và mở lòng
mình ra trước sứ vụ truyền giáo, dẫu có
gặp khó khăn thử thách, thậm chí là chống
đối bách hại, vẫn kiên trì và dũng mạnh thi
hành sứ vụ bằng một trái tim chan chứa tình yêu
như Ngài, trong Ngài và nhờ Ngài.
|