PHẢN ỨNG
CỦA HỘI ĐƯỜNG THÀNH NAGIARÉT
Suy niệm
của Đức cố Giám mục Nguyễn sơn Lâm.
Chúa nhật trước, chúng ta thấy
Đức Giêsu khởi sự đi giảng đạo,
Người đã vào hội đường Nagiarét,
xưng mình là vị tiên tri Thiên Chúa hứa sẽ gởi
đến cho dân Người. Hơn nữa, khi áp dụng lời sách Isaia về
người Tôi tớ Thiên Chúa vào cho mình, Đức Giêsu
đã khẳng định Người là Cứu thế
đến công bố năm hồng ân của Thiên Chúa
tức là khai mạc thời đại cứu độ
mọi người. Hôm nay, thánh Luca cho chúng ta
thấy phản ứng của người đồng
hương với Đức Giêsu trước những
lời xác quyết của Người.
Đó là thái độ cố hữu
của người Do Thái, như Giêrêmia đã kinh
nghiệm. Đó
cũng có thể là cách trả lời của chúng ta
đối với mọi mạc khải của Thiên Chúa
nơi các ngôn sứ của Người, nếu chúng ta không
nghe lời thánh Phaolô mà đặt đức ái lên trên
hết. Vậy chúng ta hãy suy nghĩ
về cả ba bài Kinh Thánh hôm nay để hiểu mình và
sửa mình cho xứng đáng với ơn Chúa muốn
cứu độ chúng ta.
1. Thái
độ cố hữu của người Do thái
Không dân tộc nào được Chúa yêu
thương như cộng đồng con cái Israen. Không phải vì họ có những đức tính
trổi vượt hơn hết mọi dân tộc;
nhưng chỉ vì Thiên Chúa đã khấng chọn họ làm
dân riêng của Người. Họ có
luật pháp là mạc khải khôn ngoan cao cả của Thiên
Chúa. Họ còn thường
được các tiên tri đến dạy dỗ.
Đó là những ngôn sứ thay mặt Thiên Chúa đến
soi sáng và hướng dẫn họ sống theo
luật pháp, hầu được đẹp lòng Chúa và
hưởng các ân huệ Người ban.
Nhưng Do Thái lại là dân cứng
đầu cứng cổ.
Họ vứt bỏ đường lối của Thiên
Chúa để đi theo lòng dục
của mình. Vị tiên tri nào Chúa gửi
tới cũng gặp nhiều chống đối và khó
khăn. Một phần nữa cũng vì có quá
nhiều những tay bịp bợm,
lạm dụng sự mê tín của quần chúng tự
xưng là sứ giả của Thiên Chúa. Nên bên
cạnh một số ít tiên tri thật, có nhan nhản
những tiên tri giả và những kẻ "muốn làm
nghề tiên tri". Vì sự hiện diện và
hoạt động của những kẻ này, các ngôn
sứ của Chúa phải tăng thêm nỗ lực
để khẳng định Lời Chúa và ơn gọi
của mình. Và thường khi các ngài phải
"chết để nói lên lời". Giêrêmia là một trong những vị đại
tiên tri. Ông là một trong 4 đại tiên
tri còn để lại văn phẩm. Không
vị tiên tri nào đã gặp nhiều đau khổ vì
ơn gọi như ông.
Thế nên, xét về phương
diện đau khổ, ông là vị tiên tri gần với
Đức Giêsu Kitô hơn hết. và Phụng Vụ hôm
nay đã theo truyền thống coi ông là hình ảnh báo
trước về nhà tiên tri thành Nagiarét có định
mệnh "phải chịu đau khổ". Chúng ta đọc lại những chương
36-45 trong sách Giêrêmia để xem nhà tiên tri này đã khổ
sở thế nào. Người ta
chống đối, muốn bịt miệng ông, bắt ông
phải vào tù ra khám, và có lần đã muốn chấm
dứt đời ông rồi. Nhưng
trong mọi trường hợp, Giêrêmia vẫn cương
quyết công bố Lời Chúa và khẳng định ơn
gọi thiêng liêng của mình.
Bài đọc hôm nay không cố ý mô
tả cuộc đời thơ ấu của Giêrêmia
đâu. Nhưng
đây là cái nhìn của một người rất
đứng tuổi và chín chắn nghĩ lại ơn
gọi của mình, để làm chứng cho mọi
người thấy thiên mệnh đã đè xuống trên
ông.
Đồng bào của Giêrêmia, tức là
cộng đồng con cái Israen vẫn tin rằng Thiên Chúa
là nguồn gốc mọi sự và con người cũng
do tay Người nặn lên. Nhưng
điều ít ai để ý, là trước khi Thiên Chúa
tạo dựng nên vũ trụ và muôn vật hữu hình
này, Người đã có một kế hoạch rất rõ
ràng. Ơn gọi của các tiên tri nằm
trong kế hoạch ấy.
Thế nên "trước khi Ta nắn
ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi; và
trước khi lọt dạ mẹ, Ta đã tác thánh
ngươi. Ta đã
đặt ngươì làm tiên tri cho các dân tộc". Và
để chứng minh điều này, Giêrêmia nói thêm
rằng: khi được gọi, ông chưa biết nói,
nhưng Chúa bảo chính Người sẽ ban Lời cho ông
để ông chỉ có việc nói những lời của
Người mà thôi.
Đó là những lời thành thật. Chúng ta không có gì phải
nói thêm. Chúng ta chỉ để ý
đến lời Giêrêmia khẳng định mình đã
được đặt làm tiên tri cho "các dân
tộc". Ý ông muốn nói sấm ngôn của Chúa,
mạc khải của Người, không dành riêng gì cho dân Do
Thái, nhưng cho mọi dân nước và thời
đại. Tính cách phổ cập này thêm vinh
dự cho ơn gọi tiên tri tự nó đã cao quý vì phát
xuất từ Thiên Chúa. Tuy nhiên ơn
gọi này lại rất bi đát. Những
lời sau của Giêrêmia tóm tắt định mệnh
của ông.
Ông phải "nai lưng", tức
là phải lấy thế để chiến đấu, vì
người ta sẽ tuyên chiến với ông. Họ cưỡng lại mọi
lời ông nói, vì lời của ông diễn tả ý Chúa
chứ không chiều theo dục vọng
của loài người.
Đó là tiêu chuẩn để phân
biệt các tiên tri giả và các tiên tri thật. Những người này
dù bị chống đối và đau khổ vẫn như
thành trì, trụ sắt và tường đồng, cự
lại các vua và khanh tướng. Không phải vì
họ có can đảm phi thường, nhưng chỉ vì
Chúa đã giữ lời hứa với các tiên tri của
Người "Ta sẽ ở với ngươi
khiến chúng không làm gì được ngươi".
Thật ra không phải vị tiên tri nào
cũng thoát khỏi bàn tay sát nhân của loài người
độc dữ đến nỗi sau này có lần
Đức Giêsu phải kêu lên "Giêrusalem, Giêrusalem, kẻ
giết hại các tiên tri" (Mt 23,37). Và
có như thế, các tiên tri mới là những người
báo trước vị tiên tri sẽ phải đến trong
thời kỳ sau hết, Người cũng sẽ bị
giết, nhưng sự sống lại của Người
sẽ làm chỗi dậy mọi bậc tiên tri đến
trước hầu cho thấy "thủ lãnh thế gian
bị luận phạt".
Hôm nay bài Tin Mừng Luca cho chúng ta
thấy vị tiên tri này.
Không những Người đã gợi
lại mà còn thực hiện bài sách Giêrêmia. Chúng ta hãy
quan sát Người theo lời thuật
của Luca.
2.
Phản ứng của hội đường thành Nagiarét
Đức Giêsu bấy giờ vừa
giảng xong. Người ta thán phục Người.
Họ cảm thấy như có một nguồn ân sủng thoát ra từ môi miệng của
Người. Nhưng Người không là con nhà ông Giuse sao?
Suy nghĩ này làm chứng họ không muốn khiêm
nhường đón nhận sứ điệp cứu
độ đến với họ qua một con
người bình thường ở giữa họ.
Đức Giêsu chua chát nghĩ đến câu: "Không tiên
tri nào được tôn trọng ở quê nhà".
Và từ đó, Luca nghĩ rằng
Đức Giêsu đã nhìn xa hơn nữa, không những
Người thấy những kẻ đồng
hương với Người ở Nagiarét không muốn
chấp nhận Người; nhưng qua họ,
Người còn thấy rõ cả dân tộc Do Thái nữa
cũng sẽ không đón nhận. Họ
cậy mình đã có luật pháp và không muốn bị xáo
trọn bởi một luồng gió mới nào nếu
người khởi xướng không làm được
những dấu lạ điềm thiêng như Môsê ngày
trước. Nghĩa là họ chỉ
muốn mãi mãi là những người xác thịt, coi
trọng những cái bề ngoài và không bao giờ muốn
trở nên trưởng thành, biết ý thức về ý
nghĩa của luật pháp như các tiên tri thường
hướng dẫn. Tín ngưỡng
của họ trở thành thứ tôn giáo của chữ
viết, và của hình thức, chứ không muốn là
sự sống tinh thần như Thiên Chúa kêu gọi.
Do đó, họ rất ít nghe lời các tiên tri. Hơn nữa, họ còn bỏ rơi các ngài.
Thường khi họ còn giết chết các
ngài nữa. Mà các ngài đâu có thiếu gì
các quyền năng? Êlya không có quyền
đóng góp cửa trời và làm mưa sao? Thế mà có ai trong dân Do Thái được nhờ
ông? Trái lại một góa phụ ở
Sarepta thuộc dân ngoại đã được ông cứu
đói. Êlisê cũng vậy. Ông là tiên tri rất mạnh thế.
Tuy nhiên cũng chẳng ai trong dân Do Thái
được cho lành bệnh, đang khi Naaman, một
bậc khanh tướng ngoại đạo đã
được ông chữa khỏi bệnh cùi. Luca trích dẫn những
câu chuyện này để phục vụ ý kiến của
ông khi viết cuốn Tin Mừng thứ ba. Ông có ý diễn tả rằng dân Do Thái đã không
biết đón nhận nhà tiên tri ở giữa họ là
Đức Giêsu thành Nagiarét. Và vì vậy sự
nghiệp ân sủng của Người
đã được chuyển sang cho dân ngoại là Hội
Thánh hiện nay.
Luca đã không muốn lợi dụng
câu chuyện đã xảy ra trong Hội đường
Nagiarét để tổng quát hóa công cuộc cứu thế
của Đức Giêsu Kitô và để báo trước
đau khổ vinh quang đang chờ đợi
Người.
Người đã đến giữa dân Người, rao
truyền tin mừng cứu độ, nhưng thân nhân
của Người và dân Người đã không đón
nhận, nên ơn cứu độ của Người mang
đến đã chuyển sang dân ngoại là Hội Thánh
chúng ta ngày nay.
Lời khẳng định này, làm sao
người Do Thái có thể chịu đựng
được? Họ
đã nhất tề đứng lên, hung hăng lôi
Đức Giêsu ra khỏi thành, đưa Người lên
một sườn đồi và định tâm đẩy
Người xuống cho chết đi. Nhưng
Người đã nhẹ nhàng đi qua mặt họ
để tiếp tục cuộc hành trình.
Bằng những lời đơn
sơ này, Luca muốn báo trước cuộc tử nạn
của Đức Giêsu. Người sẽ bị
người Do Thái kéo ra khỏi thành và đóng đinh trên
sườn đồi... Nhưng Người
sẽ nhẹ nhàng linh diệu thoát khỏi nơi họ
đẩy Người tới để sống lại
vinh quang, tiếp tục công việc cứu thế của
Người.
Như vậy, có thể nói, bài Tin
Mừng hôm nay không chỉ đơn sơ thuật lại
những gì xảy ra trong hội đường ở
Nagiarét. Hoặc
Luca đã dùng câu chuyện này để vẽ ra
trước tất cả định mệnh của
vị tiên tri đến rao giảng ơn cứu
độ cho dân Người. Người
cũng bị đối xử không hơn gì các tiên tri
đi trước. Như bài sách Giêrêmia
đã nói. Nhưng cũng như tiên tri
này đã loan báo, Người thật là sứ giả
của Thiên Chúa gửi đến báo cho các dân tộc.
Hoặc đúng hơn, Luca đã dùng những biến
cố trong cuộc đời của Đức Giêsu Kitô,
và đặc biệt những sự kiện tử nạn
và phục sinh của Người, làm đèn chiếu sáng
lên câu chuyện xảy ra tại hội đường
ở Nagiarét và thuật lại sự kiện theo ánh sáng
mầu nhiệm chết và sống lại của
Đức Giêsu Kitô.
Dù sao, bài Tin Mừng hôm nay không những
cho chúng ta thấy cuộc đời vất vả của
Chúa Cứu Thế, nhưng còn muốn gợi lên phản
ứng tự nhiên của loài người xác thịt đối
với tin mừng cứu độ và hạnh phúc đang
dành cho lương dân đón nhận tin mừng. Chúng ta
dĩ nhiên không muốn cư xử như người Do
Thái. Nhưng để được như
vậy, phải làm gì? Xin vị tông đồ các dân
ngoại soi sáng giúp đỡ chúng ta.
3. Con
đường chúng ta phải đi
Thánh Phaolô gởi thư
cho giáo dân Côrintô. Ở đây người ta
đang háo hức được các ơn lạ để
phục vụ Chúa, họ thèm ơn nói tiếng lạ,
ơn tiên tri, ơn chữa bệnh, ơn xưng
đạo mạnh mẽ hơn. Nhưng
thánh tông đồ thấy có nhiều khuynh hướng
chuộng hào nhoáng trong những sự háo hức này.
Đó không phải là con đường nên đi vào. Nó
sẽ biến những tín hữu trở thành những con
người xác thịt như dân Do Thái ngày trước.
Và thánh nhân đã chỉ cho mọi
người thấy con đường phải đi vào. Đó là bác ái. Thiếu bác ái mọi
đặc sủng kia sẽ rỗng
tuyếch. Vì người ta muốn phục
vụ ư? Ao ước làm
được những sự ngoạn mục, thật là
vô ích. Đức Giêsu đến phục
vụ không làm như vậy. Người
đã yêu thương chúng ta và yêu thương cho
đến chết. Thế nên đối với thánh
Phaolô, ở đây, con đường bác ái yêu thương
rất cụ thể.
Nó có hai hạng người làm
đối tượng: kiên nhẫn với kẻ thiếu
nhân đức và giúp đỡ những kẻ thiếu
thốn. Đối với cả hai hạng
người, kẻ bác ái phải có những thái độ
chứng tỏ lòng kiên nhẫn và bộc lộ lòng
quảng đại. Tiêu cực, họ
không được nóng nảy, bực tức, hoặc chán
nản, tuyệt vọng; còn tích cực, họ phải duy
trì niềm vui, tin tưởng và kiên trì. Được
như vậy, đức bác ái sẽ toàn thắng sự
dữ và giúp đỡ được hiệu năng.
Thế nên, so sánh với những
đặc sủng mà người ta ao ước như các
ơn nói tiếng lạ, ơn nói tiên tri, ơn chữa
bệnh, ơn giảng đạo, đức bác ái rõ ràng
trổi vượt. Tất cả các ơn kia
có ngày sẽ hết. Chúng chỉ cần cho
đời tạm này. Nhưng lòng bác ái sẽ tồn
tại mãi mãi đi theo ta sang cả
thế giới bên kia. Mà sánh với hai nhân
đức khác là đức tin và đức cậy, nhân
đức bác ái vẫn trổi hơn. Cả
ba nhân đức này đều cần thiết cho
đời sống đạo và cho mọi nhân đức
khác. Cả ba cũng theo ta sang
cả đời sau, theo nghĩa đức tin là trạng
thái cởi mở tâm hồn nhận biết Chúa thì
đời sau vẫn cần; và đức cậy cũng
sẽ cần vì là trạng thái của linh hồn muốn
được Chúa yêu thương. Nhưng
đức mến sẽ tồn tại và cao quý hơn
hết vì nó làm cho chúng ta kết hợp với Thiên Chúa là
bản chất của đời sóng hạnh phúc sau này
ở trên trời.
Thế nên chúng ta hãy đi vào con
đường bác ái. Trươc đây, người Do
Thái không đi con đường ấy nhưng
bước theo hướng xác thịt hời hợt
bề ngoài vì họ như là trẻ con đối với
thời đại Thánh Thần yêu mến đã
được đổ xuống trong Hội Thánh. Ngày nay
được phúc ở trong thời đại sung mãn,
chúng ta phải đi vào con đường trưởng
thành là bác ái.
Và giờ đây hơn bao giờ
hết khi cử hành thánh lễ, chúng ta được
đưa vào con đường bác ái. Không những chúng ta
được thấy Đức Giêsu đến rao
giảng tin mừng cứu độ như là vị tiên
tri cao trọng hơn mọi tiên tri. Người còn thể
hiện mầu nhiệm tử nạn phục sinh
để hoàn thành sứ mệnh tiên tri của
Người một cách siêu việt hẳn hơn Giêrêmia
ngày trước... Và hơn cả hôm
Người ở trong hội đường ở
Nagiarét.
Mầu nhiệm bàn thờ đây còn tuôn
đổ Thánh Thần yêu mến cho những ai thành
khẩn tham dự. Nhưng cử hành thánh lễ sốt sắng bao
nhiêu, họ phải sống bác ái chân thật và cụ
thể bấy nhiêu để lấy kiên nhẫn
lướt thắng sự tội và lấy phục vụ
xóa bỏ nghèo khó. Phấn đấu hết mình
cả về phương diện tinh thần cả về
phương diện vật chất là nhiệm vụ
của những ai đi trong con đường bác ái. Ai
đã dự lễ mà có thể từ chối đi vào con
đường ấy?
|