“Người nhà đã không tiếp
nhận Ngài”
Sau
khi đã sai nhóm Mười Hai đi từng hai
người để thực tập việc tông
đồ tại miền quê xứ Galilê, Chúa Giêsu trở
về thăm Nagiarét, nơi mà Ngài đã được nuôi
dưỡng và lớn lên trong mái ấm gia đình
dưới sự chăm sóc của Mẹ Maria và thánh Giuse.
Sau khi làm cho cô bé con ông Giairô viên trưởng hội
đường sống lại, Ngài dừng chân tại
Capharnaum. Các môn đệ đi theo Ngài ít
ngày đầu, nhưng sau đó, một mình Ngài trở
về thăm quê, và dự một buổi thờ
phượng nhằm ngày sabát. Được
mời lên tiếng, Ngài có cơ hội đưa ra một
thông điệp quan trọng.
Các khán giả nghe Ngài với nỗi kinh
ngạc. Họ không
thể nào chống lại vẻ dịu dàng của bài
giảng, hoặc chối bỏ vẻ quyến rũ của lời Ngài nói, nhưng họ
cũng không thể chấp nhận lời tuyên bố
của Ngài. Họ biểu lộ thái độ không tin
bằng một câu hỏi: “Không phải ông ấy là con bác
Giuse sao?”. Ý họ muốn nói: “Đây
không phải là người thân cận với chúng ta,
một người thợ mộc mà chúng ta đều quen
biết, chúng ta đã không biết bản thân anh ta và cả
gia đình anh ta sao? Chắc chắn anh ta không thể là
Đấng Messia được!”.
Câu trả lời của Chúa Giêsu
ngụ ý nói sở dĩ họ không nhận Ngài, vì Ngài không
làm trước mặt họ những phép lạ mà Ngài
đã làm ở nơi khác.
Khi Ngài trích dẫn câu tục ngữ: “Thầy lang ơi! hãy chữa lấy mình!” là Ngài có ý nói: “Hãy
chứng thực lời tuyên bố của anh ở đây
như anh đã làm ở các nơi khác, nếu anh muốn
chúng tôi nhận anh là Đấng Kitô”. Chúa cũng trích
dẫn câu tục ngữ khác cắt nghĩa đầy
đủ hơn về mối nghi ngờ ghen ghét của
họ: “Không có tiên tri nào được sủng mộ
nơi quê quán mình!". Những kẻ quá quen thuộc
với những bậc vĩ nhân
thường không thể nhận biết được
sự vĩ đại của các vĩ nhân đó. “Quen quá
hoá lờn” (Bụt nhà không thiêng) vì người ta có khuynh
hướng phán đoán kẻ khác theo
tiêu chuẩn giả dối, theo hình thức bên ngoài, vì
người ta không hiểu biết những kẻ mà
họ tưởng họ từng quen biết hơn
cả. Chính những nhận xét nông cạn này
đã làm tàn hại cho đời sống ngày nay. Nó khiến ta không nhận thức được
giá trị của bạn hữu, của cơ hội
để khi biết được thì quá trễ. Chính cái đó đã có một ảnh hưởng
bi đát trên sứ vụ của Chúa Giêsu.
Người ta chối bỏ Ngài vì những lý do hết
sức nông cạn và điên rồ. Họ
tưởng rằng họ đã biết Ngài vì đã quen
thuộc với tên Ngài từ lâu, trong khi thực tế
họ không thể hiểu được vẻ
đẹp của nhân vị Ngài và quyền năng của
Ngài.
Thái
độ của khán giả trở thành tức giận khi
Chúa Giêsu lấy hai thí dụ trong Cựu Ước, cả
hai đều ám chỉ rằng dầu người
đồng hương của Ngài biết rõ về Ngài,
nhưng họ vẫn không xứng đáng hưởng
ơn sủng do chức vụ của Ngài đem lại
hơn những người ngoại. Ngài
tự sánh ví mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã đem ân phúc lớn cho người ở Siđon và Êlisê cho người ở Syri, trong
khi dân Israel vẫn không nhận được
ơn vì lòng họ cứng cỏi. Như vậy, các dân
tộc trên thế giới sẽ nhận được ân
phúc do Chúa Cứu Thế mang lại trong khi những kẻ
quen biết Ngài lại phải khổ sở vì không tin. Họ đâu có chịu nổi lời quở trách
nghiêm khắc ấy. Điều làm
họ tức giận là Ngài khen tụng dân ngoại. Người Do thái vẫn đinh ninh rằng
chỉ có mình họ là dân của Thiên Chúa, cho nên họ khinh
thường các dân tộc khác. Họ tin
rằng “Chúa đã dựng nên các dân ngoại để làm
chất đốt cho lửa hoả ngục”. Thế mà giờ đây, chàng thanh niên Giêsu này,
người mà hết thảy họ đều biết,
lại giảng như thể dân ngoại được
Thiên Chúa ưu đãi. Họ nổi xung
lên, đuổi Chúa Giêsu ra khỏi thành và toan làm hại
mạng sống Ngài.
Ngay
từ khi mới sinh ra, Chúa Giêsu nhận được
một định mệnh “Ngài có mệnh làm cớ cho
nhiều người bổ nhào và chỗi dậy trong Israel, và làm dấu gợi lên chống
đối” (Lc 2,34), lời tiên tri ấy
nay đã thành sự thật.
Hẳn
thật, sau khi đã suy gẫm lâu dài về cuộc
đời Thầy mình, thánh Gioan tông đồ đã
phải đưa ra một nhận định cay
đắng: “Ngài đã đến nơi nhà của Ngài, mà
người nhà đã không tiếp nhận Ngài” (Ga 1,11). Việc xảy ra thật
đáng buồn nhất là cho Chúa Giêsu là người giàu tình
cảm đối với quê hương xứ sở.
Đáng lẽ họ phải mở rộng vòng tay đón tiếp Ngài, đáng lẽ Ngài
được tiếp rước như một
người đi xa trở về, người đã làm
nở mày nở mặt cho quê hương xứ sở. Nhưng Ngài đã bị chối bỏ.
Bài
học của Nagiarét đây vẫn luôn được
lập lại, nhiều người có cơ hội
để biết Chúa lại chối bỏ Ngài, nhưng
nơi nào có đức tin thì những tấm lòng tan vỡ
được hàn gắn như thời Êlia, và những
người phong sẽ được lành mạnh như
Naaman nhờ lời của Êlisê. Vậy trong khung cảnh
nhà hội Nagiarét, Chúa Giêsu đã nói, chẳng những
về ơn lành của chức vụ Ngài mà còn về
quyền năng phổ quát của chức vụ ấy
nữa. Ngài đến để thoả mãn
những nhu cầu của nhân loại trong cả thế
gian.
Jelana
là một trong sáu em đã được phúc nhìn thấy
Đức Mẹ trong suốt mười tám năm, và
được Đức Mẹ đích thân dạy dỗ,
có lần có người hỏi cô về số phận
của những người theo đạo Công giáo, cô
kể lại lời Đức Mẹ dạy: “Có lần
Đức Mẹ cho biết có một phụ nữ
đang sống ở Mễ Du, bà ấy đã gần
đạt tới sự thánh thiện. Các thị nhân
hỏi tên bà ấy, Đức Mẹ trả lời: bà
ấy là một người Hồi Giáo. Nghe câu trả
lời ấy, các thị nhân sửng sốt hỏi
lại: sao lại thế được. Đức
Mẹ trả lời: “Chỉ mình Thiên Chúa mới có
quyền xét đoán về những điều ấy”. Sau
đó Đức Mẹ giải thích: “Các con hãy nói cho
mọi người biết là chính các con tự chia rẽ
nhau ở trần gian. Người Hồi Giáo và Chính
Thống Giáo cũng một thể như người Công
Giáo, đều bình đẳng với nhau trước Con
Mẹ và Mẹ. Các con hết thảy đều là con cái
Mẹ. Thật ra mọi tôn giáo không phải đều
bằng nhau, nhưng hết mọi người đều
bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Không
phải cứ thuộc về Giáo Hội Công Giáo là
đủ để được cứu rỗi …
Những người không Công Giáo không phải là những
thụ tạo kém hơn đâu. Họ cũng
được tạo dựng theo hình
ảnh Thiên Chúa và được định phần chung
cuộc là sống trong nhà Thiên Chúa, Cha chúng ta. Ơn
cứu độ được cống hiến cho
hết mọi người không trừ ai. Chúa Giêsu Con Mẹ đã cứu chuộc toàn
thể nhân loại trên địa cầu. Chỉ những ai từ chối Thiên Chúa một
cách cố tình thì bị kết án, do bởi sự lựa
chọn của chính họ.
|