Chúa Giêsu thất bại tại
Nagiarét
(Chú
giải và suy niệm của Lm. PX. Vũ Phan Long)
Với
việc dân Nadarét từ khước Đức Giêsu,
bắt đầu tiến trình kết án
sẽ đưa Người đến thập giá.
Nhưng chính lập trường của Đức Giêsu
củng cố niềm tin của chúng ta.
1.- Ngữ
cảnh
Đoạn
văn chúng ta đọc hôm nay nằm trong bối cảnh
là "Hoạt động rao giảng của Đức
Giêsu tại Galilê" (Lc 3,1–9,50), và
thuộc về phân đoạn 4,16-30, "Đức Giêsu
tại Nadarét". Chúng ta có thể xác định cầu
trúc của bản văn 4,16-30 như
sau:
+ Mở: Đức
Giêsu đến Nadarét (c. 16a); Người vào hội
đường (c. 16b).
I. Đọc
sách Isaia
a)
Dẫn nhập (c. 16c)
b)
Chuẩn bị đọc (c. 17)
c)
Bản văn Isaia (cc. 18-19)
b')
Kết thúc việc đọc (c. 20ab)
a')
Kết luận (c. 20c)
- Chuyển tiếp: Mọi người
trong hội đường chăm chú nhìn Người (c.
20d)
II.
Các lời nói của Đức Giêsu
A-
Can thiệp thứ nhất của Đức Giêsu
a)
lời nói về hoàn tất (c. 21)
b)
các hậu quả đầu tiên nơi
các thính giả (c. 22)
B-
Can thiệp thứ hai của Đức Giêsu
a)
lời nói về thầy thuốc (c. 23)
b)
lời nói về ngôn sứ (c. 24)
C-
Can thiệp thứ ba của Đức Giêsu
a)
dân Israel trước Êlia (cc. 25-26)
b)
dân Israel trước Êlisa (c. 27)
+ Kết: Dân Nadarét đuổi
Đức Giêsu khỏi hội đường (cc. 28-29)
Người
rời Nadarét (c. 30)
2.- Bố
cục
Bản văn có
thể chia thành bốn phần:
1) Phản ứng tích cực của
cử tọa đối với các lời Đức Giêsu
nói (4,21-22);
2) Đức Giêsu xác định
chiều hướng của sứ vụ của Người
(4,23-24);
3) Đức Giêsu chứng minh bằng
các lối xử sự của các ngôn sứ (4,25-27);
4) Dân chúng loại trừ Đức
Giêsu (4,28-30).
3.- Vài
điểm chú giải
- Hôm nay (21): Trạng từ sêmeron hiếm khi
được hiểu theo nghĩa
tổng quát là "vào ngày hôm nay, nowadays". Do vị trí
nhấn mạnh ở đầu câu, trạng từ này
đánh dấu một điểm quan trọng trong các nhìn
lịch sử của tác giả Lc (x. 4,21;
5,26; 19,5.9; 23,43): những điểm này, những lời
nói này của Đức Giêsu vẫn còn giá trị cho
cuộc sống của người Kitô hữu hôm nay.
- đều tán thành (22): dịch sát là "đều làm
chứng cho (emartyroun) cho điều này? / cho
ngài?". Đa số các nhà chú giải hiều là
đại từ autô ở tặng cách (dative) nam-tính và có
nghĩa là "cho Người", tức là ca ngợi
Người. Chúng tôi nghĩ rằng giáo sư
Fitzmyer có lý khi cho rằng đại từ autô ở
tặng cách (dative) trung-tính (neuter) và có nghĩa là "về
điều này".
- thán
phục (22): Động
từ thaumazein có thể diễn tả sự kinh ngạc
(đi đôi với chỉ trích, nghi ngờ, phê phán; x. Lc
11,38) hoặc sự thán phục (đi đôi với sự
thích thú bất ngờ; x. Lc 1,63; 2,18; 2,33; 7,9.8.25; 9,43;11,14;
20,26 ...). Theo ngữ cảnh (đến sau
"tán thành" và được nối với
động từ bằng "và"), chỉ có thể
chọn nghĩa "thán phục".
- không phải là con ông Giuse đó sao? (22): Câu này có thể diễn tả
sự khó chịu, bực bội, khinh bỉ hoặc
một sự ngạc nhiên đầy thích thú, sự thán
phục. Theo ngữ cảnh, có thể
hiểu là sự thán phục.
- Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình (23): Đức Giêsu dùng câu tục
ngữ này để diễn tả ra nguyện vọng
thầm kín của người Do Thái: Vì họ đã nghe
biết nhiều về hoạt động của
Đức Giêsu tại Caphácnaum, họ ước muốn
Người cũng làm như thế cho quê hương. Câu
nói tiếp theo câu tục ngữ đã
giải thích ý nghĩa của câu tục ngữ. Người dân Nadarét đang tính toán vụ
lợi.
- không
một ngôn sứ nào được chấp nhận
tại quê hương
(24): Khi dịch tính từ dektos bằng "được
chấp nhận", Bản Dịch CGKPV đã coi dektos có ý
nghĩa tương tự như atimos trong Mc 6,4 và Mt 13,57, mà thật ra đây cũng là cách
dịch của các Bản dịch nổi tiếng thế
giới là BJ, TOB và NAB, và là ý kiến của một giáo
sư chuyên về truyền thống Luca, J.A. Fitzmyer (x. The Gospel according to Luke I-IX, The Anchor Bible, Doubleday NY 1970, 537). Tuy nhiên, lúc ấy ta
thấy là phản ứng mạnh của Đức Giêsu
như thế không phù hợp với thái độ của
cử tọa. Hơn nữa, các lời Đức Giêsu
nói lại không thống nhất: người ta xin
Người làm phép lạ (điều này giả thiết
là người ta có tin, dù chút ít), Người lại than
trách là bị tiếp đón tệ bạc (c. 24). Đã
thế, các ví dụ Người nêu ra ở cc. 25-27 lại
không phù hợp với hoàn cảnh: không phải là các ngôn
sứ bị tiếp đón tệ bạc (như
Người), nhưng lại là các ngôn sứ mới từ
chối làm những phép lạ để giúp đỡ
người đồng hương. Như
vậy, phải kết luận là bản văn Lc thiếu
mạch lạc?
Vấn
đề là các học giả đã hiểu bản văn
Lc theo hướng của các bản văn song song Mc và Mt,
thế mà bản văn Lc lại khác: thay vì dùng từ atimos
("bị khinh bỉ"), tác giả dùng dektos. Dektos là một tính từ phái sinh từ
động từ dechomai ("đón nhận, đón
tiếp, chấp nhận") và thường có nghĩa
bị động (passive); trong trường hợp này,
dektos tương đương với atimos. Tuy nhiên,
tính từ này cũng có một nghĩa chủ động
(active) (x. M. Zerwick, Biblical Greek, Rome 1963, số 142), "đón nhận, ân cần, thuận thảo, thuận
lợi". Và trong thực tế, cách đó năm câu,
từ dektos có ý nghĩa chủ động ("Năm
hồng ân = năm thuận lợi; năm đón
nhận"). Nếu như thế, câu nói của
Đức Giêsu hẳn sẽ có nghĩa là: không một ngôn
sứ nào dành ưu tiên / thiên vị cho / với quê
hương; và hiểu cụm từ "không một ngôn
sứ nào" là một cụm từ nói "ngoa",
chứ không theo nghĩa chữ và nghĩa xấu (= một
ngôn sứ luôn luôn tỏ ra bất thuận lợi với
quê hương mình), bởi vì trong thực tế Mt 13,58 và
Mc 6,5 cho thấy là Đức Giêsu cũng có làm một vài
phép lạ tại Nadarét. Cuối cùng, câu nói của
Đức Giêsu có ý nghĩa là: Một ngôn sứ không tỏ
ra thuận thảo với quê hương mình hơn là
với người ngoại quốc; tất cả là
vấn đề đức tin và tình trạng tâm hồn
sẵn sàng. Hiểu như thế, bản
văn rất mạch lạc.
Có
người bẻ lại: bản văn nói "en tê
patridi": patri, "quê hương"; giới từ en,
"tại, trong"; vậy en tê patridi có nghĩa là
"tại quê hương", mà như thế, nghĩa
bị động của dektos được biện minh.
Thật ra, trong hy-ngữ phổ thông [koinê] (hy-ngữ Tân
Ước là hy-ngữ này), en không chỉ có nghĩa nơi
chốn, mà còn có nghĩa thời gian, dụng cụ, nguyên
nhân, v.v. Trong nhiều cách sử dụng ấy, en
thường được dùng với các động
từ nói về tình cảm để diễn tả
"điều mà tâm tình hướng về" (W. Bauer, A
Greek-English Lexicon of the New Testament and Other Early Christian
Literature, The University of Chicago Press, Chicago 1957, tr 160: III,3b).
- nhưng quả thật, tôi nói cho các ông hay (25): De, "nhưng", tiêu từ
ở đầu c. 25 này rất quan trọng, diễn
tả một ý đối lập.
- hạn hán ba năm sáu tháng (25): 1 V 18,1 nói rằng có mưa "vào
năm thứ ba". Ở đây, tác giả Lc kế
thừa một truyền thống khác, có được
nhắc đến trong Gc 5,17. Theo
truyền thống này, thời gian hạn hán kéo dài bằng
thời gian khốn quẫn trong văn chương
khải huyền (thời gian này được rút ra
từ thời gian cuộc bách hại dưới triều
Antiôkhô IV Êpiphanê: Đn 7,25; 12,7; x. Kh 11,2;
12,6.14. Tác giả Lc không quan tâm đến ý
nghĩa khải huyền. Trời hạn hán":
dịch sát là "trời bị đóng [cửa]
lại": thái bị động thay tên Thiên Chúa.
- không được sai đến (26): Đây là thái bị động thay
tên Thiên Chúa. Xem cả c. 27,
"được sạch".
- bà góa thành Sarépta (26): xem 1 V 17,9 (LXX).
- ông Naaman
(27): xem 2 V 5,1-19
- thành này được xây trên cao (29): Nadarét hiện đại
được xây trên một triền đồi, xung quanh
có các đồi khác vây bọc. Nhưng ta không
thể xác định được nơi nào đã
xảy ra sự cố kể đây; với lại,
thật ra cũng khó tìm được một chỗ nào
ở đây có dốc núi để có thể xô
người ta xuống cho chết, hoặc để ném
đá. Vào thế kỷ ix, có một
truyền thống đã coi địa điểm này là
một chỗ cách Nadarét khoảng ba cây số về phía
đông nam, nhưng nay người ta không chấp nhận
giả thuyết này nữa. Đây
rất có thể là dấu chứng tỏ Lc không biết rõ
địa lý Paléttina và cũng có thể cho hiểu là tác
giả đã ép các dữ kiện để báo trước
việc Israel giết Đức Giêsu.
-
Người băng qua giữa họ mà đi (30): Không nhất thiết đây là
một phép lạ. Điều chính yếu đối
với Lc là cho thấy Đức Giêsu còn phải tiếp
tục con đường của Người để
loan báo Tin Mừng, và con đường này chỉ kết
thúc tại Giêrusalem (x. 13,33).
4.- Ý
nghĩa của bản văn
* Phản
ứng tích cực của cử tọa đối với
các lời Đức Giêsu nói (21-22)
Người dân Nadarét đang ca ngợi
và thán phục Đức Giêsu. Do đó, họ bắt đầu tính toán: "Ông này
không phải là con ông Giuse đó sao?" (c. 22).
Nếu đây đúng là con ông Giuse, nay đã thành ngôn sứ
và thầy chuyên làm phép lạ, sao ta lại không tận
dụng cơ hội để có lợi cho làng ta? Câu trả lời sau đó của Đức Giêsu
cho hiểu là quả thật dân chúng đang tính toán như
thế.
*
Đức Giêsu xác định chiều hướng của
sứ vụ của Người (23-24)
Đức
Giêsu đã dùng một tục ngữ để lật
tẩy lối giải thích của những người
đồng hương về sứ mạng của
Người: "Thầy lang ơi, hãy chữa lấy chính
mình" (c. 23); "chính mình" đây là dân làng
của Người. Người lập luận:
Đơn giản chỉ vì các ông là người
đồng hương với tôi, mà các ông đòi hỏi
tôi phải làm ở đây những phép lạ giống
như tôi đã làm ở Caphácnaum! Họ
muốn Nadarét cũng được hưởng nhờ
quyền lực của Người là "thầy
thuốc-thầy làm phép lạ". Nhưng
một ngôn sứ không hề chiếu cố riêng
đến quê hương mình (c. 24). Người
phải làm việc theo kế hoạch
của Thiên Chúa.
*
Đức Giêsu chứng minh bằng các lối xử
sự của các ngôn sứ (25-27)
Các ông cứ nghĩ đến
trường hợp ngôn sứ Êlia và Êlisa. Có biết bao bà góa Israel phải đói, khi trời hạn hán ba
năm sáu tháng; thế mà Êlia lại chỉ nuôi bà góa Sarépta
mà thôi (1 V 17,9-16). Vào thời Êlisa, tại
Israel đâu có thiếu người phong
hủi; thế mà Êlisa chỉ chữa lành một
người ngoại quốc mà thôi (2 V 5,1-19).
Đức Giêsu từ chối liên kết các ân
huệ thiên sai với những quan hệ thân tộc
hoặc tình làng nghĩa xóm. Người là ngôn sứ;
Người phải chu toàn một
sứ mạng Thiên Chúa giao; chẳng phải là những yêu
cầu của dân Nadarét có thể xác định
hướng hoạt động cho Người.
Đứng trước Thiên Chúa, phải bỏ đi
mọi yêu sách, mọi đòi hỏi: Thiên Chúa hòan toàn tự
do trong việc ban tặng các ân huệ;
chỉ có một đức tin khiêm nhường và tín thác
mới có thể trông chờ (chứ không đòi hỏi)
một phép lạ.
* Dân chúng
loại trừ Đức Giêsu (28-30)
Bởi
vì Đức Giêsu không chiều theo ý
họ, họ đã nổi giận và loại trừ
Người. Nhưng Người còn phải tiếp
tục ra đi để loan báo Tin Mừng và tiến
về Giêrusalem (9,51; 13,22.33; 17,11; 19,28),
tiến đến thập giá và vinh quang. Lúc
này người ta chưa chặn được sứ
vụ của Người. Người
sẽ tiếp tục phục vụ những người
nghèo ở Israel và cả các dân
nước.
+ Kết luận
Con
người không có quyền gì để được
hưởng các ân huệ của Thiên
Chúa. Không một tư cách nào cho phép con người
được quyền hưởng ơn cứu
độ thiên sai. Ơn cứu độ được
ban cho nhân loại, nơi bản thân Đức Giêsu, hoàn
toàn là ân huệ. Đó là
điều mà dân Nadarét đã không muốn hiểu. Chính thái độ này, khi đã phổ biến
khắp Israel, đã khiến
Đức Giêsu đi ngỏ lời với mọi
người ngoài Do Thái.
5.- Gợi
ý suy niệm
1.
Vì thấy Đức Giêsu là đồng hương, dân
Nadarét nghĩ Người có bổn phận chiếu cố
đến họ trước. Đức Giêsu đã
thẳng thắn đánh tan ngộ nhận này. Sự sai
lầm của người Nadarét, người tín hữu
vẫn có thể mắc phải, khi nại ra tư cách
đã được rửa tội, đã sống
đạo lâu năm (là người "đạo dòng,
đạo gốc", là tu sĩ, là linh mục ...), đã
đóng góp nhiều cho Giáo Hội bằng công sức và
của cải... Thiên Chúa hoàn toàn tự do ban phát các ân huệ cho bất cứ ai, như và khi Ngài
muốn. Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta mãi mãi là
những con người nghèo hèn, bất xứng, luôn luôn
cần được Ngài chiếu cố đến. Đức Giêsu không cứu chúng ta bằng cách làm
phép lạ, nhưng bách cách loan báo Tin Mừng của
Người và hy sinh mạng sống cho chúng ta. Phép lạ chính là Lời của Người; chính
Lời này làm ra các phép lạ và biến đổi dân chúng
và sẽ tạo ra một thế giới mới.
2.
Bằng cách nêu bật sứ mạng của hai ngôn sứ
Êlia và Êlisa, Đức Giêsu cho hiểu rằng hoạt
động của Người cũng nhằm chiếu
cố đặc biệt đến Dân ngoại. Đấy là điều Đức Giêsu còn
chứng tỏ khi đến sống tại Capha1cnaum,
một thành đầy người ngoại giáo. Ở đây sứ mạng của người
Kitô hữu được phác họa ra. Họ
cũng được sai đi để chuyển trao ân
phúc của Thiên Chúa cho Dân ngoại, như Đức Giêsu ngày
trước, và như thế, chương trình sống
của Đức Giêsu được công bố tại
Nadarét (Is 61,1-2; 58,6) cũng phải là chương trình
sống của mỗi Kitô hữu.
3.
Với việc dân Nadarét từ khước Đức
Giêsu, bắt đầu tiến trình kết án
sẽ đưa Người đến thập giá.
Nhưng chính lập trường của Đức Giêsu
củng cố niềm tin của chúng ta. Người chính
là Đấng Mêsia đích thực của Thiên Chúa, một
Đấng Mêsia không vận dụng quyền lực mình
để thực hiện một hoàn cảnh cứu
độ trần thế, nhưng đặt tại trung
tâm sứ điệp về Thiên Chúa. Nhu thế, khi sống
trong một hoàn cảnh khó khăn, cùng quẫn, ta có thể
đặt trọn niềm tin nơi Ngài, bởi vì chính Ngài
sẽ ban cho chúng ta ơn cứu độ trọn vẹn.
4.
Trong tư cách là Con Thiên Chúa, với uy quyền lớn lao nhất, Đức Giêsu loan báo Tin Mừng
cho người nghèo. Là Đấng sống
một cuộc sống nghèo, Đức Giêsu chính là lời
chuẩn nhận rằng Thiên Chúa dủ thương
chiếu cố đến những người nghèo. Đức Giêsu quy hướng niềm hy vọng
của loài người không vào của cải trần
thế, nhưng vào lòng nhân lành của Thiên Chúa.
5.
Đức Giêsu nói năng tự do bởi vì Người
không lo lắng tìm kiếm thành công riêng tư hay lợi
lộc hoặc tránh né tiếng xấu có thể lan tỏa đi các làng phụ cận,
hoặc mất sự tín nhiệm nơi các thính giả.
Người chứng tỏ là một nhà rao giảng có tinh
thần hoàn toàn tự do. Người cho
thấy có một tầm nhìn bao trùm thế giới, nhìn
tới các chân trời của chính Thiên Chúa.
|