Phát huy cuộc sống tâm linh và
các giá trị tinh thần
(Trích trong ‘Suy Niệm
Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Người ta kể: "Có ông nhà giàu
Do Thái kia có tên là Rabba, nhiều ruộng
vườn, gia nhân đầy tớ và thợ làm công. Một
hôm có người thợ làm việc cho ông lỡ làm bể
một thùng rượu, ông giận dữ mắng, chửi
thậm tệ và buộc bồi thường. Bọn
thợ đến than phiền với một tiến
sĩ luật, vị này khuyên ông Rabba tha cho đám thợ
nghèo. Ông Rabba hỏi vị luật sĩ: "Đây có
phải là luật Chúa không?" Vị tiến sĩ
trả lời: "Phải, nếu ông hiểu biết tinh
thần luật". Nghe thấy, Rabba tha không đòi đám
thợ bồi thường nữa. Có lần khác, đám
thợ can đảm than thở thẳng với ông chủ
của họ: "Thưa ông, chúng tôi quá nghèo túng, mặc
dầu được ông thương cho việc làm và chúng
tôi cũng đã làm hết sức như ông thấy,
nhưng chúng tôi cũng đói khổ và thiếu thốn
mọi sự". Vị tiến sĩ biết chuyện,
nói với ông Rabba: "Ông hãy cho họ lãnh lương tháng
trước đi, nhưng đừng ghi sổ và sau
đó sẽ quên chuyện này". Ông Rabba hỏi:
"Đây có phải là luật Chúa không?" Vị
tiến sĩ luật trả lời: "Phải, nếu
ông hiểu tinh thần luật, vì thật ra luật Chúa
đòi buộc công bằng, nhưng có chủ đích làm cho
con người trở nên tốt lành hơn".
Qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay,
Giáo Hội mời gọi chúng ta biết lắng nghe
Lời Chúa, mở mắt tinh thần canh tân tâm lòng và
sống tốt lành hơn giữa những suy đồi xã
hội một cách đích thực. Esdra và Nêhêmia là hai vị lãnh đạo
Do Thái đã có công rất lớn trong nỗ lực hồi
sinh dân Israel, tái thiết thành Giêrusalem và xây lại
đền thờ sau khi họ từ Babylon trở về
nước vào năm 537 trước Tây Lịch. Hai tác
phẩm mang tên hai vị tường thuật công tác tái
thiết cuộc sống chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội và tôn giáo của dân Do Thái trong thời ấy. Chương VIII sách Nêhêmia nêu bật vai trò của
Lời Chúa trong công trình tái thiết. Thật vậy,
đối với dân Do Thái là dân riêng Chúa chọn, đã
nhận được luật lệ Chúa ban, nghĩa là
Lời Người nói với họ, thì công trình tái
thiết không thể chỉ hạn hẹp trên bình diện
vật chất như xây lại nhà cửa đền
đài, tổ chức trở lại bộ máy chính trị,
kinh tế và các dịch vụ hành chánh của cuộc
sống thường ngày, mà còn phải tái thiết cuộc
sống tinh thần nữa.
Tái
thiết ở đây, trước tiên có nghĩa là trở
về với các đòi buộc của Giáo Hội, tuân
giữ các luật lệ của Chúa, sống chìm ngập
trở lại trong bầu khí đạo hạnh, tin
tưởng vững mạnh vào các Lời Chúa hứa vào
giao ước và các phúc lành của Chúa. Nói cách khác,
dưới ánh sáng Lời Chúa, việc tái thiết
đầu tiên mà dân Do Thái phải làm là công cuộc tái
thiết cuộc sống nội tâm, cuộc sống tinh
thần bị tội lỗi phá hủy. Vì
nếu không thì công cuộc tái thiết vật chất
cũng sẽ không giúp dân Do Thái hồi sinh thật sự.
Có đền thờ đẹp mà làm gì với tâm lòng con
người đầy tràn tội lỗi và xa rời Thiên
Chúa. Đây là lý do giải thích tại sao mặc dầu có
rất nhiều điều phải làm trong giai đoạn
tái thiết, ông Nêhêmia vẫn tổ chức các buổi
cử hành Phụng vụ Lời Chúa và dành thời giờ
cho việc đọc, lắng nghe và suy niệm Lời
Chúa, và toàn dân tán thành việc tái thiết cuộc sống
tinh thần do ông đề xướng.
Mặc
dầu giờ đây họ cũng đang rách rưới,
đói khát cơm bánh, cần đến nhà cửa và công
ăn việc làm, nhưng người dân hiểu rằng
trong quá khứ, kiểu cách sống tội lỗi sa
đọa của họ đã khiến cho Giêrusalem bị
đánh chiếm và thành thánh bị phá hủy bình địa,
thì giờ đây, chỉ có cuộc sống tâm linh mới
giúp họ duy trì những gì họ sẽ xây dựng mà thôi. Nếu không có nếp sống tinh thần mạnh
mẽ, nền văn minh vật chất cao, sớm
muộn gì cũng dẫn đưa con người
đến chỗ diệt vong.
Lịch sử thăng trầm của
mỗi dân tộc trên thế giới đều minh xác
sự thật này. Sự suy đồi luân lý đạo đức
và các giá trị tinh thần là dấu chỉ các bước
đầu suy thoái của một xã hội. Do đó
phát huy cuộc sống tâm linh và các giá trị tinh thần là
cách thế hữu hiệu nhất giúp duy trì và thăng
tiến cuộc sống xã hội. Ngay trên bình
diện vật chất, lập trường của ông
Nêhêmia là một bài học quí báu cho các vị lãnh đạo
tinh thần, cho các cộng đoàn dân Chúa. Công việc cấp thiết nhất luôn luôn là
việc đào tạo nhân lực, củng cố tinh
thần sống đạo sâu đậm của tín
hữu, chớ không phải là xây thêm nhiều nhà thờ và
cơ sở cho to, cho lớn, cho đẹp. Các cơ sở cần thiết nhưng chúng không
làm nên sức mạnh của cộng đoàn dân Chúa.
Nguyên tắc này đã được thánh Phaolô áp dụng
như tường thuật trong chương 12 thư thứ nhất gởi tín hữu
Côrintô.
Cộng đoàn này hồi đó bị
chia rẽ nội bộ trầm trọng, các cuộc
cải vã, tranh chấp giành địa vị xảy ra trong
các tầng lớp trong cộng đoàn, thêm vào đó là
kiểu cách sống và hành xử đi ngược tinh
thần Kitô. Trong các tín hữu có người sống dâm
loạn, buông thả các nhân đức Kitô, đặc
biệt là đức bác ái bị lãng quên. Để
tái tạo sự hiệp nhất giữa các thành phần
cộng đoàn và cho thấy tất cả mọi
người đều có một chỗ đứng quan
trọng và một phận vụ cần thiết
đối với cộng đoàn, thánh Phaolô đã dùng
lại hình ảnh thân mình và các chi thể là một hình
ảnh quen thuộc trong nền văn chương Ai
cập, và nhà văn Rôma, Titô Liviô, đã dùng lại
để diễn tả nỗ lực của hoàng
đế Agrippa làm hòa lại giữa hai nhóm cùng đinh và
quý tộc Rôma tranh chấp chống đối nhau. Tuy nhiên,
thánh Phaolô không chỉ dùng hình ảnh thân mình và chi thể
như một kiểu nói ám chỉ, diễn tả tính cách
bổ túc và phối hợp điều hòa giữa các chi
thể với nhau trong thân thể con người, mà thánh
nhân cũng còn rất thường hay nói đến thân mình
thật sự của Chúa Kitô là bí tích Thánh Thể và thân mình
mầu nhiệm của Chúa Kitô là cộng đoàn tín
hữu, là Giáo Hội. Cộng đoàn tín hữu phải có
khả năng diễn tả cho mọi sinh hoạt và
kiểu cách sống của mình, những gì được
biểu lộ trong bí tích Thánh Thể, nghĩa là diễn
tả sự hiệp nhất tinh thần, chia sẻ ơn
thánh, thái độ sống tận hiến cho nhau, hòa tan
trong nhau và xây dựng cho nhau và với nhau. Điều
đó cũng có nghĩa là các tương quan giữa các tín
hữu với cộng đoàn và nhiệm vụ mỗi
người giữa lòng Giáo Hội, phải
được sống như trong bí tích Thánh Thể,
phục vụ, hy sinh và tận hiến, chớ không
được để cho chủ trương tranh giành
địa vị, đòi hỏi quyền lợi như các thái
độ vụ lợi trần tục chi phối và
hướng dẫn.
Trong
viễn tượng và tinh thần đó, mỗi một
Kitô hữu đều tìm ra chỗ đứng của mình
trong lòng cộng đoàn Giáo Hội mà không bị rơi vào
chước cám dỗ coi mình là có nhiều khả năng
nhất, tài giỏi nhất và giữ địa vị quan
trọng nhất, không có mình thì không xong. Thay vì cố
gắng xây dựng vun trồng cộng đoàn Giáo Hội
vững mạnh thì lại sống phản chứng, ích
kỷ, kiêu căng ngạo mạn để đi
đến chỗ trở thành dụng cụ của Satan,
đánh phá Giáo Hội, gây chia rẽ kỳ thị khiến
cho cộng đoàn Giáo Hội bị thương tích tan rã
và suy yếu đi.
Mỗi
khi không sống theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô
và không diễn tả những gì được thể
hiện qua bí tích Thánh Thể, là người tín hữu
chối bỏ ơn cứu độ mà Chúa Giêsu Kitô đã
đem đến cho nhân loại khi nhập thể làm
người, khi bước vào lịch sử và sống
giữa lòng xã hội con người. Trong chương 1 và
4, thánh Luca có ý củng cố niềm tin của tín hữu,
đặc biệt những người nghi ngờ nền
tảng lịch sử của ơn cứu độ. Thánh
nhân đề nghị với mọi người theo sát
chương trình sống của Chúa Giêsu Kitô, chương
trình này hiện thực Lời Thiên Chúa hứa, vĩnh
viễn can thiệp vào cuộc sống của con
người đã bị tội lỗi biến sự
sống trở thành cái chết. Tất cả những
động từ thánh Luca dùng trong chương 4,14-21,
như giải thoát, chữa lành, trao ban ơn thánh cho con
người, diễn tả ơn cứu độ toàn
vẹn mà Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại. Chúng cũng phải là kiểu cách sống của
một Kitô hữu, khi nào và ở đâu có bóng dáng Kitô
hữu, thì ở đó bóng tối của sự dữ
cũng phải bị đẩy lui. Khi đó, ở
con người cũng có cuộc sống sung túc lành
mạnh hơn trên thân xác mà nhất là trong tinh thần.
Đây là lý do giải thích mọi nỗ lực và mọi
sinh hoạt của xã hội trong việc củng cố
cuộc sống tâm linh và thăng tiến cuộc sống
xã hội cho con người. Tinh thần minh
mẫn trong thân thể tráng kiện, một thân thể có to
lớn mập mạp béo tốt đến đâu mà không có
tinh thần và tâm trí lành mạnh, thì cũng chỉ là
một thân thể bệnh hoạn đáng thương.
|