LỜI TỰA CỦA THÁNH KÝ. --- Chú giải của R. Gutzwiller
Lời mở đầu Tin mừng của Thánh Luca
đưa ra ánh sáng hai ý niệm quan trọng:
1. Tin mừng muốn chuyển đạt một sự
xác thực. Điều này được nói rõ như là
mục đích riêng của Tin mừng. Sự xác thực này
dựa trên những yếu tố khác biệt nhưng
trước hết dựa trên chính nội dung của Tin
mừng. Tin mừng trước hết không phải là
một giáo thuyết, nghĩa là không phải là một
kiến trúc trí thức, cũng chẳng phải là một
bộ luật với những giới luật và cấm
đoán, hay là một vòng hoa gồm những chuyện thần
tiên mà một thế hệ sau đã thêu dệt lên chung quanh
con người Giêsu; hơn thế Tin mừng càng không
phải là một huyền thoại, nói khác đi, là một
tư tưởng viết lên thành kịch. Trái lại, trong
Tin mừng, các sự kiện thực sự đã được
kể lại. Lòng đạo đức đích thực
phải khách quan, xây trên những thực tại.
Thiên Chúa là nguyên nhân đầu tiên, và việc Ngài
đến trong thếù gian này là một việc lớn lao
nhất, chính yếu nhất trong các chân lý. Ở đây phát
sinh một sự kiện hiển nhiên, có thể sờ
thấy đuợc, nhờ đó mà tất cả mọi
hoạt động của nhân loại và tất cả các
sự vật khác có được một giá trị và
một ý nghĩa mới mẻ. Đó là những sự
kiện cụ thể mà Tin mừng kể lại.
Tiếp đến là chủ ý nói tới những
biến cố xảy ra giữa chúng ta, ‘trong môi
trường của chúng ta’. Thánh Luca không phải như là
một sử gia cố gắng tái lập những biến
cố cổ xưa từ nhiều thế kỷ nhờ
vào các nguồn mạch. Ngài viết trong chính miền mà
những sự việc đã xẩy ra và thuộc về
thế hệ chứng nhân của những việc đó.
Những nguồn mạch Ngài múc ra bảo đảm
được sự đích thực. Ngài không trực
tiếp là Tông đồ hay môn đệ của Đức
Giêsu. Ngài cũng chẳng hề được diện
kiến Thày hay nghe chính lời Thày. Nhưng những cái Ngài
biết, dựa vào những chứng nhân tận mặt,
họ làm chứng về những cái họ đã chứng kiến,
mà không phải chỉ là đứng ngoài nhìn, nhưng còn được
tham gia việc phục vụ Lời Chúa nữa. Nhiệm
vụ chính của họ là truyền đạt Tin mừng
và tất cả hoạt động của họ đều
nhằm vào viễn tượng này. Họ không nói lại
lời nào khác mà trao lại ‘lời’, trao lại ‘những
lời của Ngôi Lời’, những ngôn từ thần linh
nhân loại của Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể.
Thánh Luca đã dùng đến nhiều nguồn khác nhau. Ngoài
những bản văn chính lục của Matthêu và Máccô, Ngài
còn sử dụng những nguồn khác và hơn thế,
Ngài đã dùng một số lớn những bằng
chứng khẩu truyền. Một khi biết
được sự chính xác của trí nhớ
người Phương đông cổ xưa, người
ta sẽ hiểu được những chuyện kể
truyền khẩu được quy định nhanh chóng
trong một hình thức cố định được
truyền lại hết sức là chính xác.
Cuối cùng, chính Thánh Luca là con người
được coi là chắc chắn. Ngài chú trọng
đến tất cả những gì được cung
cấp từ nguồn ngọn, Ngài không phải là con
người dễ tin và nhẹ dạ: là người Hy
lạp và là thày thuốc, Ngài là một quan sát viên biết
cân nhắc, có tài đánh giá thực tại, không ưa
những chuyện mơ mộng và huyền hoặc. Ngài
không hài lòng với việc chỉ nhắc lại cái chính
yếu thôi, nhưng nhấn mạnh tới các nguồn
mạch. Tin mừng của Thánh Luca không bắt đầu
như Thánh Máccô bằng cuộc đời công khai của của
Chúa Giêsu. Nhưng hơn ai hết, Ngài thuật lại
với nhiều chi tiết, những khởi đầu
của một sứ điệp lạ lùng: truyền tin, giáng
sinh và hơn thế nữa sự mong đợi và sinh
nhật của Vị Tiền hô.
Cuối cùng, Ngài quyết định ‘cứ tuần
tự’ kể lại các biến cố, không phải kéo dài
từ đầu chí cuối mà sắp xếp theo một
lược đồ rõ rệt, một tổng hợp
gồm nhiều yếu tố được thích ứng một
cách rành mạch, hợp lý.
Như vậy, dưới cái nhìn thế trần, Tin
mừng theo Thánh Luca đã làm thành một văn phẩm
chính xác. Còn với các tín hữu, chúng ta chỉ biết
dưới những lời này Thần Khí Thiên Chúa, Đấng
linh ứng cho tác giả Tin mừng, tuy dấu mình, chính Thần
khí này là tác giả thực sự của Tin mừng,
Đấng ban cho chúng ta niềm chính xác hoàn toàn do sự
thật bất-khả - ngộ.
2. Cùng với mục đích của nó, lời tựa này
còn cho chúng ta thấy ít nhiều đặc tính cá biệt
của Tin mừng. Tác giả là người Hy lạp và là
một y sĩ. Hai sự việc này có tầm mức quan trọng
đặc biệt: là thày thuốc, Thánh Luca đã chú
trọng rất nhiều tới tác động cứu
độ và chữa trị của Đức Giêsu. Vì
thế, Ngài đã học lại cho chúng ta cách dồi dào
những cử chỉ giúp đỡ và chưã lành bệnh
nhân thể xác, khuyên nhủ và thứ tha bệnh nhân tinh
thần, những tội nhân.
Vậy hình ảnh Đức Kitô đây mới là dung
mạo của Đấng Cứu đời đích
thực. Đức Giêsu chữa cả xác lẫn hồn.
Qua các cuộc tranh luận, chiến đấu hay qua
đau khổ, tử nạn và sống lại hoặc qua
sự thảm bại hay chiến thắng, tất cả
đều được biến đổi dưới
sự từ tâm sáng ngời đầy nhân đạo và
lòng bác aí của Ngài.
Thánh Luca không phải là một dân thường như
Thánh Máccô hay một nhà tranh luận học thức như
Thánh Matthêu, hoặc một thần học gia và một nhà
thần bí như Thánh Gioan, nhưng là một y sĩ,
hiểu được nỗi thống khổ của con
người và sự trợ giúp của Thiên Chúa, hiểu
được bệnh tật và việc chữa trị
được tội lỗi và ơn tha thứ.
Thánh Luca là người Hy lạp, là dân ngoại chứ
không phải là Do thái. Vì thế sứ điệp của
Ngài đã làm nổ tung những khuôn khổ chật hẹp
của người Do thái. Cái nhìn của Ngài bao gồm
cả nhân loại, chân trời của Ngài rộng như
vũ trụ. Ngài nhấn mạnh tới yếu tố
mới mà Chúa Giêsu đem đến, đó là Tân ước
và việc tạo dựng một dân mới của Thiên
Chúa; Lời mời gọi được trao đến tất
cả mọi người như đã âm vang tới cả
hoàn vũ, đến nỗi Giáo Hội phổ quát trở
thành công việc của Đấng cứu độ toàn
cầu.
Lời tựa ngắn gọn và trọng yếu này
thực sự sửa soạn cho yếu tố cấu thành
nên mục đích và nguồn gốc của Tin mừng theo Thánh
Luca. Vì thế nó cho thấy nơi tác giả thái độ
trí thức xứng hợp và việc chuẩn bị
nội tâm.
Chúa Giêsu tới, đòi hỏi một sự thay
đổi toàn bộ cả bên ngoài lẫn bên trong.. Con người sẵn sàng đáp ứng
đòi hỏi đó nếu nó dựa trên sự chính xác và
mở rộng ra được những viễn tượng
lớn lao và rộng rãi. Mục đích, đặc tính
của Tin mừng Luca đã bảo đảm
được cả hai điểm đó.
TRỞ VỀ GALILÊ
Trước khi thuật lại một giai đoạn
quan trọng trong việc giảng Tin mừng ở Galilêa,
Thánh Luca đã viết một dấu nhập nhắn làm
nổi bật tất cả hành năng của Chúa Giêsu
trong giai đoạn này.
‘Chúa Giêsu trở về Galilêa’. Điều này tự nó
không hiển nhiên. Hoạt động có tính cách chờ mong
Đấng Messia đã được Gioan Tẩy giả
mở đầu ở xứ Giuđêa; như vậy,
khởi đầu công cuộc giảng Tin mừng ở
đó hợp lý biết bao.
Hơn nữa, Chúa Giêsu còn được chuẩn
bị để đi vào xứ này bằng bao biến
cố xảy ra bên bờ sông Giođan, vì xứ Giuđêa với
thủ phủ là Giêrusalem, quê hương riêng của dân Thiên
Chúa. Chính ở đây có đền thờ, ở đây các
lễ hy sinh được dâng tiến và muôn dân tuôn về
đó, ở đây người ta thấy có giai cấp
tư tế, các trường phaí bác học và rồi
truyền thống các tiên tri cũng được lưu
giữ ở đây.
Thế nhưng, trái với sự mong chờ, Chúa Giêsu
lại trở về Galilêa. Sau này, Ngài mới lên Giuđêa,
ở đó Ngài sẽ đương đầu với các
thù địch, sẽ hiến mạng sống mình làm
lễ hy sinh và kết thúc công trình cứu độ của
Ngài. Nhưng giờ ấy chưa đến.
Trước hết, Ngài muốn thư thả
để tiếp tục loan báo Nước Thiên Chúa,
đặt nền móng cho Giáo Hội, thu họp những
người tin. Ngài thấy xứ Galilêa có số dân chúng
sẵn sàng hơn. Nước Thiên Chúa là một hồng ân:
vì thế, những người quyền cao chức
trọng, những người giàu có, những đầu
óc kiêu căng không thể chấp nhận được. Họ
ngỡ rằng mình có thể giúp mình được
rồi; kẻ tự tin ở sức riêng mình đâu có hy vọng
nơi Đấng Cứu Chuộc. Kẻ câỵ dựa
vào sức lực riêng mình, thì không biết chuẩn bị
để đón nhận ơn sủng.
Từ đây, những nét chính trong bố cục Tin
mừng của Thánh Luca đã lộ ra. Xứ Galilêa là
điểm khởi hành. Những phân chia chính yếu trong
cuốn sách Thánh này được sắp xếp theo
những nơi chốn địa dư: phần thứ
nhất diễn biến trong xứ Galilêa, phần thứ
hai trên đường từ Galilêa đến Giuđêa,
phần thứ ba ở ngay trong xứ Giuđêa.
Bên trong hai miền trên, Thánh Luca xen lẫn và phối trí
theo một mức độ nào đó, một loạt các
biến cố theo thứ tự niên biểu, nhưng
chỉ phác hoạ những nét chính, vì đó bao giờ cũng
là sự liên tục có tính cách luân lý hơn là vấn
đề niên biểu.
‘Trong quyền năng của Thánh Thần. Cũng
một Thần trí đã đưa dẫn Chúa vào chốn cô
tịch, bây giờ lại đưa dẫn Ngài đến
giữa loài người. Điều này có ý nói Chúa Giêsu hoàn
toàn để cho Thần trí hướng dẫn.
Ai muốn hướng dẫn đời mình chỉ
bằng những ý tưởng của riêng mình, và tin
tưởng ở cảm hứng của mình thì sẽ không
tìm được vị thế đúng đắn của
mình trong trật tự cao sang và thánh thiện của Thiên
Chúa. Còn người nào biết cầu nguyện, mở
cửa lòng mình đón nhận những sự trên cao,
hẳn được Thánh Thần Thiên Chúa hướng
dẫn, dầu trong cảnh tĩnh mịch hay giữa lòng
đại chúng. Chúng ta đã đánh mất tâm tình sẵn
sàng để được dẫn dắt như thế,
đó là căn cớ của mọi hỗn độn, vô
trật tự.
Thánh Thần Thiên Chúa đồng thời cũng
tượng trưng cho mầu nhiệm riêng tư thâm tình
nhất của Chúa Giêsu. Ngài hoàn toàn thấu suốt bí
nhiệm đó, hành động và quyết định
của Ngài.
Tin mừng nói về sức mạnh của Chúa Thánh
Thần. Những lời giảng mạnh mẽ của
Chúa Giêsu, sức mạnh của các phép lạ Ngài làm hết
thảy đều phát xuất từ nguồn phong phú mãnh
liệt là Thánh Thần Thiên Chúa. Từ ngữ Hy lạp ‘dunamis’
gồm có ý tưởng chuyển động. Ở đâu
Thần trí Chúa hoạt động, ở đó hẳn
sẽ có chuyện lạ. Đây không phải là sự yên
nghỉ suông, mà là một hoạt động đang trên
đường đi đến hiện thực.
Những khả năng thực hiện việc lớn,
khả năng sáng tạo của Thánh nhân không thể
đem đồng hoá với hoạt động bên ngoài;
đó là một năng động, một năng
động tính thực sự, kín múc từ trong sức
mạnh của Chúa Thánh Thần. Nhiều vị thánh nhân xác
yếu đuối, dễ bị bệnh tật, thế
nhưng sức làm việc của các Ngài chưa chắc
người khoẻ mạnh cường tráng có thể theo
đuợc. Sức mạnh của các Ngài là sức mạnh
của Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng muốn làm
những việc vĩ đại bằng những công
cụ mỏng dòn.
‘Tiếng tăm Ngài lan ra khắp miền xung quanh’. Vẻ
tĩnh mịch của làng Nagiarét, sự cô tịch của
vùng hoang địa từ nay thuộc về quá khứ. Chúa
Giêsu đã xuất hiện giữa con người. Sứ
điệp của Ngài không còn chi bí mật cả: tiên vàn
lời kêu gọi được chuyển từ làng này qua
làng kia, sau được truyền từ xứ này qua
xứ nọ và rồi từ dân này tới dân khác.
Viên đá được ném xuống mặt hồ:
những gợn sóng, những vòng đồng tâm cứ lan
rộng cho đến khi đụng vào ngưỡng cửa
của vĩnh cửu. Một âm điệu mới đã
vang lên và sẽ chẳng bao giờ ngưng đọng
nữa dù là trong thời gian, dù là trong thế giới bên
kia.
Sự lan tràn của Tin mừng này ngay từ khởi
đầu, công cuộc giảng phúc âm ở Galilêa đã
mang lại cho lần xuất hiện đầu tiên
của Chúa Giêsu trước quần chúng một tính
chất mạnh mẽ vô địch, một vẻ
tươi mát của mùa xuân, của giọt sương mai
và niềm vui khi hừng đông xuất đầu lộ
diện. Một đàng người ta cảm thấy có
sự trao ban, một đàng là sự đón tiếp đầy
nhiệt tình hoan hỷ. Những dân cư khiêm tốn, quê
mùa, những ngư phủ mộc mạc tỏ ra rất
sung sướng vì có một vị tiên tri xuất hiện
giữa họ, xuất thân từ giai cấp họ;
một người hiểu được họ, biết
được nếp sinh hoạt của họ, chia
sẻ số phận của họ, đồng thời
lại cao cả hơn họ, nói năng rõ ràng,
hướng dẫn sáng suốt và hành động vì lòng
thương yêu.
‘Ngài giảng dạy trong các hội đường
của họ’. Chúa Giêsu còn dạy dỗ ở nhiều
nơi khác nữa: ở bờ hồ, trên triền núi, trong
tư gia; nhưng tiên vàn Ngài năng dạy dỗ trong các
hôị đường, bởi chính ở nơi đây, dân
chúng tụ tập lại để nghe đọc lề luật
và các tiên tri.
Đối vời giáo lý của Thày, lề luật và các
tiên tri tượng trưng cho điểm gặp gỡ
bề ngoài lẫn bề trong. Nhưng trước hết nhấn
mạnh đến giáo huấn. Đấy không phải là
điểm quan trọng nhất trong cuộc đời
Chúa Giêsu. Cái chết và Phục sinh của Ngài còn vĩ
đại hơn nhiều. Nhưng dầu sao, nếu giáo huấn
có được đặt lên hàng đầu thì cũng là
để chứng tỏ giá trị của Lời
giảng.
Ngài tỏ mình ra như một tiến sĩ luật,
bởi vì Ngài công bố quan niệm đúng đắn
về luật cũ và về luật mới của Tin
mừng.
Chúng ta luôn phải lắng nghe Lời Thiên Chúa để
khỏi bị những lời của nhân loại dẫn
vào mê lộ. Chính Lời của Thiên Chúa, giáo lý của Chúa
Giêsu, chứ không phải khoa học, sẽ giúp giải
quyết những bí ẩn tối hậu, và giải đáp
những vấn đề thâm sâu nhất.
‘Ai nấy đều ca tụng Người”. Con
người của Ngài, cách Ngài nói, cách Ngài tỏ mình, thái
độ, hành năng của Ngài có một cái gì hấp
dẫn khó cưỡng lại được. Ai lắng
nghe Ngài mà lòng không thành kiến và nội tâm không chai đá
thì hẳn phải thán phục và mến yêu Ngài. Vì Ngài có
sức bắt buộc phải chọn lựa. Quần
chúng xôn xao, nọi người và mỗi người phải
chọn lựa cho mình một thái độ theo hay không theo,
không ai được kính nhi viễn chi, dửng dưng,
trung lập… Một sự hồ hởi nổ tung. Đây
là phản ứng đầu tiên. Từ từ sự chống
đối manh nha và rồi lớn mạnh thành cả
một mặt trận phản kháng. Nhưng ở khởi
đầu, thì chỉ có một đám đông dân cư vui
mừng hoan hỉ. Mọi người đều vang
tiếng hát bài ca mới; Người ta nói đến
cuộc khởi hành mới… Thần khí của Chúa Giêsu Kitô
làm phát sinh nhiệt tình phấn khởi.
Bằng vài lời đó, công cuộc rao giảng Tin
mừng ở Galilêa được phác hoạ như là
một giáo lý và hành năng có sức mạnh lớn lao,
một khơi động niềm vui và là công trình của Chúa
Thánh Thần.
NAGIARÉT
Theo Thánh Luca, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ
chính thức ở Nagiarét. Thánh ký không muốn nói rằng
Chúa Giêsu giảng ở đó lần đầu, vì Ngài có nói
đến bản văn viết về Chúa đã giảng
dạy ở Caphanaum. Nhất là vì Thánh Luca muốn chứng
tỏ bằng một thí dụ, và ngay từ đầu
cuộc sống công khai của Chúa Giêsu cho thấy lý do hành
năng của Ngài đã gây ra sự phân cách, người
chấp nhận, kẻ từ bỏ.
Vì thế, quang cảnh tả ở đây cấu thành
một thứ lời tựa và mở đầu cho
hoạt động của Chúa ở Galilêa, nhờ việc
khai triển trình thuật đó cùng với bầu khí
của nó.
NHIỆT TÌNH ĐÓN NHẬN.
Trong hội đưỡng, khi hai bài đọc về
lề luật và tiên tri chấm dứt, thì một cử
toạ có thể đứng lên chú giải bản văn,
hoặc là giải thích, hoặc là đưa ra bài giáo
huấn xây dựng. Chúa Giêsu cũng làm như thế. Ngài
bảo người ta đưa cho Ngài cuốn sách tiên tri
Isaia, Ngài đọc bản văn Ngài đã chọn rồi
ngồi xuống để giáo huấn. Mọi
người chờ đợi với sự kinh ngạc
khôn tả. Chúa Giêsu chưa làm gì ở Nagiarét khiến
người ta chú tâm đến Ngài. Ngài cũng chẳng là
một Ra-bi đã từng tra cứu sách này sách nọ… Bỗng
dưng người ta nghe đồn Ngài đã khởi
sự giảng dạy trong những thành khác ở xứ
Galilêa.
Đây là lần đầu tiên Ngài trở về ngôi làng
nơi Ngài sinh trưởng, nơi mà ai nấy đều
biết Ngài tỏ tường. Ngài sắp nói gì đây?. Trong bản văn Ngài vừa đọc,
tiên tri Isaia mô tả thời cuối cùng kết thúc cuộc
lưu đày và mở đầu cho một thời kỳ huy
hoàng tương lai, thời kỳ Đấng Cứu
Thế xuất hiện. Với một vẻ đơn
sơ nhưng trang trọng, Chúa Giêsu đã áp dụng
những lời tiên tri vào chính bản thân Ngài cách rất
tự nhiên: ‘Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh thánh mà
tai các ngươi vừa nghe’.
‘Thánh Thần Chúa ngự trên tôi’. Nếu ai có thể nói
được điều đó thì hẳn phải là Chúa
Giêsu. Không phải Ngài chỉ xem thấy Thần khí ngự
xuống trên mình dưới hình thức mắt trần xem
thấy được khi chịu phép rửa ở sông
Giođan, đến độ nói theo loài người thì
hiển nhiên Ngài đã được tràn đầy Thần
Linh Chúa. Nhưng nhờ sự kết hợp bản tính
Thiên Chúa với bản tính nhân loại nơi một
chủ vị, Ngài còn tràn đầy Thần Linh Thiên Chúa
đến độ Thần Linh đồng hoá với Thần
Trí của Ngài tự nhiên và ngự lại ở trên Ngài
không phải trong chốc lát nhưng là cách chủ yếu và
thường tồn. Hơn ai hết, Ngài tỏ ra là
một người của Thiên Chúa và một người
thiêng liêng.
‘Người đã xức dầu cho tôi’. Chúa Kitô là
dầu tuyệt hảo bởi vì Ngài trổi vượt
hơn hết thảy mọi tiên tri, và tỏ mình ra cả về
phần Thiên Chúa lẫn phần riêng của Ngài, như
chưa từng có vị nào trong số các tiên tri đã làm. Ngài
là Lơì của Thiên Chúa đã nhập thể; vì là Dầu,
nên Ngài là Vua trên hết các vua, là Đấng Thống
trị tối cao, bởi vì Nước của Ngài là Nước
Thiên Chúa, Đấng không hề biết giới hạn là
gì cả về không gian lẫn thời gian. Ngài là vị
Tư Tế đã được hiến thánh bởi vì xét
như là Người-Chúa, là Đấng trung gian giữa Thiên
Chúa và nhân loại, một hiến lễ của Ngài đã
có giá trị mang lại hiệu quả và ý nghĩa cho
mọi hiến lễ khác. Ngài là Đấng Messia dân Israel
mong đợi, nay đã đến rồi.
‘Người đã sai tôi’. Một ơn gọi trong Tôn
giáo bao giờ cũng kèm theoi một sứ mạng Xức
dầu không phải để cho riêng ngươì-được-xức-dầu,
nhưng là cho những người mà vị này được
phái tới. Tự căn bản, Chúa Giêsu là Đấng
được sai đi. Sứ vụ của Ngài là một
sự kéo dài việc Ngài sinh ra từ Thiên Chúa: Đấng
xuất phát từ Cha qua việc nghĩa tử nay đi vào
trần gian để đưa dẫn thế gian về
với Cha. Cốt tuỷ của sứ vụ Ngài là như
thế đó.
‘Đem Tin mừng cho người nghèo khó’. Đây là
những người nghèo khó về vật chất,
nhưng trước hết là những người nghèo
về phần thiêng liêng. Chỉ có ai ý thức
được sự khốn khổ của mình mới
biết chuẩn bị đón nhận ‘Tin mừng’ ban phát
ân sủng. Chúa Giêsu biết không được sai
đến với những kẻ ngỡ rằng mình đã
đầy đủ rồi, nhưng là đến với
những người đau khổ vì hoàn cảnh của
bản thân mình và hoàn cảnh của trần gian. Đối
với những người này sứ điệp của Ngài
thực là một Tin mừng.
‘Loan truyền sự giải thoát cho kẻ tù đày’. Tù
đày bề ngoài ở Babilon, rồi được
trở về tự do chỉ là một dấu chỉ
phớt qua của ý định lớn lao này: ‘giải phóng
con người khỏi ách tù đày bề trong do tội
lỗi và quỷ ma trói buộc. Nói theo nghĩa chặt, đây
mới chính là tù đày và giải phóng. Chúa Giêsu là một chiến
sĩ giải phóng vĩ đại nhất của loài
người. Vì thế tự do là một trong những chân
lý chủ yếu, là một trong những yếu tố
căn cơ của sứ điệp Kitô giáo. Ở đâu
người ta không còn cảm thấy hơi hướng
của tự do này, ở đó câu nệ hình thức, lo âu,
sợ hãi một lần nữa lại làm cho mọi sự
tê liệt, Tin mừng bị bóp méo ngay từ trong bản
chất của nó.
‘Cho người mù được thấy’. Ở đây
cũng lại có ý chí sự mù loà nội tâm, sự tối
tăm nghi hoặc đối với những vấn
đề trọng đại, đêm đen của tâm
hồn vì xa cách ánh sáng Thần Linh. Chúa Kitô soi chiếu
trần gian. Nhờ Ngài ánh sáng bừng lên trong tâm trí
người đi tìm kiếm; soi sáng tâm hồn bị áp
bức, soi sáng đêm đen tội lỗi. ‘Người mù
loà được xem thấy’. Đức Kitô chỉ
cần đụng tay là ánh sáng trở lại với
người mù: đây là dấu chỉ mãi mãi mới mẻ
về sự soi sáng thật mà Chúa Kitô đã mang đến
cho những ai bị mù loà phần linh hồn.
Nhờ ánh sáng mạc khải, ánh sáng của lý trí sẽ
trở nên ánh sáng có bản chất đặc biệt cho
đến khi nó rạng soi trong ánh sáng vinh quang, không còn pha
lẫn chút tăm tối nào nữa. ‘ánh
sáng của lý trí’, ‘ánh sáng của mạc khải’ và ‘ánh sáng
của vinh quang’ rốt cuộc đều là hoa trái của
‘Ánh Sáng Chúa Kitô’.
‘Trả tự do cho kẻ bị áp bức’. Đức
Kitô đứng về phía những người yếu, phía
kẻ cô thế, bị bóc lột, áp bức. Sứ
điệp của Ngài có tính cách xã hội. Nhưng, ở
đây còn có một cái gì thâm thuý hơn. Quyền lực ma
quỷ, Satan, áp bức và đe doạ tâm hồn. Một
sự áp bức đè nặng con người và làm cho cuộc
sống bị bất ổn. Satan là thủ lĩnh thế
gian: đó là lý do tại sao Kitô giáo là một cuộc cách
mạng tôn giáo, vì nó lật nhào kẻ muốn chiếm
đoạt địa vị không thuộc về mình; thay vào
đó là quyền năng tối cao của Thiên Chúa, không áp bức
nhưng giải phóng.
‘Loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa’. Hừng
đông của thời kỳ vĩ đại của
ơn cứu độ mở đầu với việc
Đức Messia đến. Tất cả mọi năm
hoan hỷ của Israel chỉ là điềm báo cho thời
tương lai này, thời mà sự vui mừng vô tận
phát sinh từ âm hưởng của Tin mừng.
Như thế, khi áp dụng những lời tiên tri vào
bản thân mình, Chúa Kitô mô tả con người và sứ
vụ của Ngài bằng những từ ngữ đơn
sơ nhưng uy nghiêm đến độ dân chúng nín
thở, hồi hộp lắng nghe và cảm kích. Họ
ngạc nhiên về sự kiện Ngài dạy dỗ, con
người chưa bao giờ học hành ở đâu cả;
họ kinh ngạc về cách Ngài dạy dỗ, hoàn toàn khác
với lề thói của các thày dạy lề luật
họ đã quen; và họ bị những điều Ngài
giảng dạy hấp dẫn, vì đây là sứ
điệp ban ơn cứu độ, ánh sáng, sự
trợ giúp và tự do.
Theo sau Lời Chúa Giêsu giải thích là một hồi thinh
lặng. Cử toạ nói với nhau, trao đổi
cảm tưởng. Trước hết đây là một sự
lôi cuốn pha lẫn vui mừng, rồi lần lần có
nhiều tiếng nói khác nổi lên, trước tiên là
tiếng của các luật sĩ có mặt trong buổi
họp ấy. Bầu khí từ từ đổi thay,
rồi biến đổi hẳn. Phần thứ hai trong
hoạt cảnh này diễn biến theo một chiều hướng
hoàn toàn ngược hẳn.
|