Đức Giêsu đến giải phóng con
người - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Sứ mạng của Đức Giêsu và các ngôn sứ
là gì? Có phải sứ mạng đó chỉ liên quan
đến tâm linh và tôn giáo, không liên quan gì đến
cuộc sống đời thường của con
người?
2. Sứ mạng của Đức Giêsu và các ngôn sứ
có bao trùm những lãnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội không? Có thể tránh được sự bao
trùm ấy không? Tại sao?
3. Người Kitô hữu có bổn phận phải tranh
đấu cho quyền sống và quyền sống cho ra con
người không? Tránh né việc tranh đấu ấy có
phải là thái độ đúng đắn không?
Suy tư gợi ý:
1. Sứ mạng của Đức Giêsu và các ngôn sứ
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đọc sách
của Isaia nói về sứ mạng ngôn sứ của ông. Đức
Giêsu cũng áp dụng sứ mạng ấy cho chính Ngài qua
câu: «Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị
vừa nghe». Đức Giêsu hay các ngôn sứ
được «Thiên Chúa xức dầu tấn phong» và
được Thần Khí Chúa ở cùng, để làm gì? Chắc
chắn không phải chỉ để tế lễ hay
đọc kinh cầu nguyện, cũng không phải
chỉ để lo những chuyện thuần túy tôn giáo
như «loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn», mà còn để
làm cả những công việc xã hội, việc ngoài
đời, như «cho người mù được sáng mắt»,
cho «kẻ bị giam cầm được tha», «trả
lại tự do cho người bị áp bức». Sách Châm
ngôn cũng nói lên một trong những công việc quan
trọng mang tính xã hội của người ngôn sứ:
«Con hãy mở miệng nói thay cho người câm, và biện
hộ cho mọi người bất hạnh. Hãy mở
miệng phán xử thật công minh, biện hộ cho
những kẻ nghèo nàn khốn khổ» (Cn 31,8-9).
Thật vậy, cuộc đời của Đức
Giêsu và của các tông đồ đầy dẫy những
công việc như: chữa lành đủ mọi chứng
bệnh, trừ khử đủ mọi thứ quỉ,
hóa bánh ra nhiều để lo cho người đói… Sách
Công Vụ Tông đồ nói về Đức Giêsu: «Đi
tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó» (Cv
10,38). Việc thi ân giáng phúc của Ngài không phân biệt lãnh
vực nào là đạo, lãnh vực nào là đời. Gioan
Tẩy Giả - cũng là một ngôn sứ - ngoài việc
dọn đường cho Đức Giêsu, rao giảng
sự hối cải, ông còn làm những công việc mang tính
xã hội như lên tiếng cảnh cáo vua Hêrốt không
được lấy vợ của anh ruột mình, bất
chấp việc cảnh cáo ấy có thể dẫn ông vào tù
hay mất mạng (x. Mt 14,3-12). Các ngôn sứ thời
trước, ngoài những công việc mang tính tâm linh và tôn
giáo, cũng đã từng dấn thân vào những việc xã
hội như lên tiếng cảnh cáo vua cũng như toàn
dân chúng về những tội ác của họ.
2. Đức Giêsu đến để giải phóng con
người toàn diện
Ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu là
đến để giải phóng con người một
cách toàn diện, cả tâm linh lẫn thể xác, cả cá nhân
lẫn xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu
của Kitô giáo là: chân lý, công lý và tình thương (x. Mt
23,23). Về tâm linh, Ngài giải phóng con người
khỏi ách thống trị của tội lỗi, của
lề luật, của thói hư tật xấu, khỏi
tính yếu đuối của bản tính con người. Thánh
Phaolô viết: «Chính để chúng ta được tự
do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta» (Gl 5,1; x. Rm 6,18;
Cl 1,13). Ngài cũng đến để giải phóng con
người về mặt thể chất: «Ai sẽ
giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ
ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta» (Rm
7,24-25); «Anh em đã chết cùng Đức Kitô và
được giải thoát khỏi các yếu tố
của vũ trụ» (Cl 2,20). Về mặt xã hội, Ngài
đến để thực hiện một xã hội lý
tưởng là Nước Trời, không chỉ tại thiên
mà còn tại thế, trong đó mọi người
đối xử với nhau bằng chân lý, công lý và tình
thương.
Vì thế, từ khi thành lập đến nay, Giáo
Hội vẫn tiếp nối sứ mạng của
Đức Giêsu là cứu độ con người một
cách toàn diện. Chủ trương đó phần nào
được diễn tả trong kinh «Thương người
có 14 mối», trong đó không chỉ có 7 mối về linh hồn
mà còn có 7 mối về thể xác.7 mối về thể xác
rất cụ thể là: cứu giúp những kẻ
thiếu thốn vật chất (thiếu ăn, thiếu uống,
thiếu mặc, thiếu chỗ ở…); an ủi, giúp
đỡ và chữa lành những kẻ ốm đau
bệnh tật; thăm viếng và tìm cách giải phóng những
kẻ bị giam cầm một cách oan ức hoặc
bị làm nô lệ; giúp kẻ chết trong cảnh nghèo
khổ được chôn cất tử tế. Tất
cả đều nhằm giúp cho mọi người -
đặc biệt những kẻ nghèo khổ -
được sống và chết xứng với phẩm
giá cao trọng của con người, là con cái và là hình
ảnh của Thiên Chúa.
3. Người Kitô hữu phải bảo vệ
quyền sống cho ra người
Theo gương Đức Giêsu, tiếp tục thực
hiện sứ mạng toàn diện của Ngài, nhiều Kitô
hữu đã tranh đấu rất mạnh, rất
hăng hái để bảo vệ sự sống, chẳng
hạn chống phá thai, chống ngừa thai theo những
phương pháp trái tự nhiên. Điều đó thật
đáng khích lệ! Nhưng phần còn lại cũng
rất quan trọng - là làm cho sự sống mà mình đã
bảo vệ được sống cho xứng với
phẩm giá con người - thì rất nhiều Kitô hữu lại
coi nhẹ hoặc không đặt nặng. Như thế có
khác nào «đánh trống bỏ dùi», «đem con bỏ
chợ», «đầu voi đuôi chuột»? Thử hỏi:
bảo vệ cho các thai nhi được quyền sống
trên đời, nhưng lại không bảo vệ cho chúng
quyền được sống hạnh phúc, sống
đúng với phẩm giá con người, thì việc bảo
vệ sự sống cho chúng có ích lợi gì? Ngoài việc
bảo vệ sự sống, ta còn có bổn phận phát
triển sự sống, để sống có chất
lượng. Đừng để những thai nhi mà chúng
ta cứu sống phải sống bất hạnh
đến nỗi chúng phải than trách ta, những kẻ
cứu sống chúng: «Thà để chúng tôi đừng sinh
ra thì hơn!», «Tranh đấu cho chúng tôi sinh ra làm gì nếu
sau đó lại để chúng tôi lâm vào cảnh lầm than
khổ sở thế này?»
4. Phải tranh đấu cho công lý
Muốn mọi người được sống
đúng phẩm giá của con người, xứng với
địa vị của con cái Thiên Chúa, chúng ta phải loại
trừ mọi hình thức bất công trong xã hội. Hiện
nay, trong xã hội, sự xuất hiện hay sự
thịnh vượng của người này có thể gây
khó khăn hay làm giảm bớt quyền lợi của
người kia. Vì thế, người ta tìm đủ
mọi cách để tước đoạt hoặc giảm
thiểu quyền sống và quyền sống cho ra
người của nhau. Vì thế, muốn mọi
người được sống đúng với phẩm
giá của con người, phải có những người
tranh đấu cho quyền ấy. Những kẻ đang
tước đoạt quyền làm người của kẻ
khác hầu như không bao giờ tự động trả
lại quyền ấy cho người bị tước
đoạt cả. Họ chỉ trả lại quyền
đó khi chúng ta hoặc chính người bị tước
đoạt tranh đấu đòi buộc họ phải
trả lại. Hy vọng dùng cầu nguyện hoặc
lời năn nỉ van xin để kẻ ác tự
động trả lại sự công bằng cho mọi
người quả là một ảo vọng.
Muốn cho mọi người đang sống
được sống đúng với phẩm giá của
mình, thiết tưởng chúng ta phải tranh đấu
mới được, dù là tranh đấu trong ôn hòa,
trật tự. Và chúng ta cần tranh đấu cho quyền
sống cho ra người một cách cũng hăng hái và
hữu hiệu như chúng ta đã từng tranh đấu
để bảo vệ sự sống vậy! Là
người Kitô hữu, được thúc đẩy
bởi đức ái Kitô giáo, chúng ta có bổn phận
phải tranh đấu cho mọi người có quyền
sống và quyền sống cho ra người. Muốn thế,
phải lên tiếng bảo vệ công lý, chống lại
những cơ chế phát sinh bất công, nghèo khổ,
đồng thời cổ võ mọi người - mà
trước hết là chúng ta - sống yêu thương
đùm bọc lẫn nhau.
5. Tranh đấu như thế có hợp với tinh
thần Kitô hữu không?
Việc tranh đấu cho quyền làm người và
sống cho ra người như thế tất nhiên ít
nhiều phải liên quan tới chính trị. Các ngôn sứ
của Thiên Chúa không hề chủ trương làm chính
trị. Nhưng khi thực hiện sứ mạng của
mình, là làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương, các ông
không ngại ngùng khi việc làm chứng ấy có vẻ như
dính líu đến những vấn đề chính trị,
hay mang tính cách chính trị. Việc lên tiếng hay làm
chứng cho chân lý, công lý và tình thương trong xã hội,
làm sao tránh được chuyện liên can đến chính
trị? cũng như làm sao tránh được chuyện
liên can đến văn hóa, xã hội, kinh tế…? Tất
cả mọi vấn đề trong xã hội con người
đều liên quan đến nhau một cách chặt
chẽ. Không thể làm một việc gì trong xã hội mà
không bị liên can đến những vấn đề
ấy! Không muốn liên can đến những vấn
đề ấy thì làm sao lên tiếng hay làm chứng cho chân
lý, công lý và tình thương trong xã hội được? Muốn
vô can thì chỉ có nước là im lặng, bất
động, không nói không làm gì cả, và cũng hãy từ
bỏ ý muốn làm ngôn sứ!
Cũng tương tự như các ngôn sứ không
chủ trương làm mất lòng ai, hay làm ai ghét mình,
nhưng nếu vì sứ mạng mà phải làm mất lòng,
phải nên cớ cho người ta ghét, thì cũng đành
phải chấp nhận. Chẳng lẽ vì sợ làm
mất lòng, sợ bị người ta ghét mà mình đành
lỗi sứ mạng của mình?! Phải chăng
người ngôn sứ được miễn thi hành
sứ mạng của mình khi việc thi hành sứ mạng
ấy có liên can đến chính trị?
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, nhiều khi chúng con coi những gì liên quan
đến chính trị như những điều kỵ
húy, như thể chúng phản lại tinh thần Kitô
hữu. Thực ra chúng con không thể tránh được
sự liên quan ấy khi chúng con làm theo tiếng lương
tâm, khi chúng con bảo vệ chân lý, công lý và tình
thương. Chúng con đã coi chuyện tránh né những
vấn đề chính trị còn quan trọng hơn cả
việc tuân giữ lề luật của Thiên Chúa là
luật yêu thương: chúng con sẵn sàng bỏ thi hành
luật Chúa khi việc thi hành này có liên quan đến chính
trị! Xin cho chúng con ý thức được quan niệm
sai lầm của mình.
|