Đức Giêsu tại Nadarét –
Lm. PX Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Tác
giả Lc đưa Đức Giêsu đi vào lịch sử
dưới dấu chỉ là hoàn cảnh chính trị và tôn
giáo của đế quốc Rôma và của Israel. Qua cái cổng này, ngài lấy lại
các chặng của TM Mc.
Lc
đặt phần 1 của Tin Mừng dưới dấu
chỉ là việc mạc khải của Đức Giêsu
tại Nadarét; các hoạt động đầu tiên của
Người tại Caphácnaum và Galilê đến tiếp vào
(Lc 4,14-5,16). Bên trong đoạn này, tác giả bố trí các
hoạt cảnh theo nhiều cách: ngài cố tình nêu bật
Galilê. Hơn các tác giả Nhất Lãm khác, ngài nhấn
mạnh việc Đức Giêsu trở về miền Galilê
“trong quyền năng Thánh Thần” (4,14). Ở 4,44, ngài thay
thế Galilê bằng Giuđê, nhưng để nói về
toàn lãnh thổ của người Do Thái ; đứng
đầu các thành phố và làng mạc được loan
báo Tin Mừng, ngài đặt Nadarét (4,16); tại Galilê,
nơi có vai trò quan trọng là Caphácnaum (4,31 ; 7,1).
Vậy,
chỉ có miền Galilê nằm trong nhãn quan của Lc ở
đoạn này. Chuyển động không nằm trong
việc thay đổi nơi chốn, nhưng trong việc
rao giảng về Nước Trời: Bằng việc hoán
chuyển vị trí của câu truyện Nadarét, Lc cho thấy
rằng con người và sứ mạng của Đức
Giêsu mới là ưu tiên (Lc 4,13-30 = Mc 6,1-10; Mt 13,53-58).
2.- Bố cục
Sách
Bài đọc gộp vào đây hai bản văn xa nhau ba
chương trong TM Lc. Khó mà thấy được ý
hướng của sự ghép nối này; có lẽ các chuyên
viên Phụng vụ chỉ muốn nối với nhau hai
bản văn “mở đầu”: mở đầu Tin
Mừng theo Lc (1,1-4) và khởi đầu việc rao
giảng của Đức Giêsu tại Nadarét (4,14tt).
Bản
văn Phụng vụ có thể chia thành ba phần:
1)
Mở đầu Tin Mừng (1,1-4);
2)
Tóm: Bắt đầu sứ vụ (4,14-15);
3)
Thăm viếng Nadarét (4,16-21):
a)
Thăm viếng hội đường Nadarét (c. 16),
b)
Đọc Kinh Thánh (cc. 17-20),
c)
Giảng dạy (c. 21).
3.- Vài điểm chú giải
- Nadarét (16): chính xác là Nadara. Đây là lần duy
nhất tác giả Lc gọi quê hương Đức Giêsu
bằng cái tên A-ram Nadara (tương tự Mt 4,13), nhưng
lại không gọi là “quê hương/quê quán” của
Đức Giêsu (khác với Mc 6,1 và Mt 13,54): có lẽ bởi
vì Đức Giêsu không sinh ra tại đó (2,4-7), nhất là
bởi vì đối với Lc, “quê hương” của
Đức Giêsu là toàn thể đất Israel (x. cc. 24-27).
-
đứng lên đọc Sách Thánh (16): Tác giả Lc cho thấy Đức
Giêsu giảng dạy dựa trên Kinh Thánh. Ta có thể
hiểu ngầm rằng ở đây Đức Giêsu đã
được ông trưởng hội đường
(archisynagôgos) mời đọc và trình bày mộtbản
văn Kinh Thánh (như Phaolô và Banaba ở Antiôkhia miền
Pisiđia; x. Cv 13,15). Tại Paléttina vào thế kỷ
đầu tiên, việc cử hành ngày sabát tại hội
đường dường như gồm có việc hát
một thánh vịnh, đọc kinh Shema (Đnl 6,4-9;
11,13-21; Ds 15,37-41) và tơphillâh [lời cầu khẩn]
(hoặc shơmôneh esrêh = “Mười Tám [lời chúc lành]”
và đọc một seder (quyển nghi thức) hay một
pârâshâh trích từ tôrah (Lề Luật = Ngũ Thư) và
mộtđoạn các Ngôn sứ (haptârâh; x. Cv 13,15). Sau đó
là bài diễn giải các bản văn Kinh Thánh đã
đọc. Cuộc cử hành chấm dứt bằng
lời chúc lành của ông trưởng hội
đường và lời chúc lành tư tế (x. Ds 6,24-26).
Tác
giả Lc không nhắc đến bài đọc Tôrah,
nhưng phải hiểu là có. Ngài chỉ quan tâm hơn
đến việc ứng nghiệm các lời sấm
Đệ II Isaia và cách sử dụng Cựu Ước
theo quan điểm Kitô học.
- cuốn
sách ngôn sứ Isaia (17):
Người ta yêu cầu Đức Giêsu đọc
mộtđoạn Ngôn sứ bằng tiếng Hípri. Tác
giả không nói đến Targum, tức dịch bản Hípri
ra tiếng Aram, nhưng có thể giả thiết là có, vì
vào lúc ấy, người Do Thái dùng tiếng Aram chứ
không còn hiểu tiếng Hípri nữa. Sự kiện
người ta “trao cho” Đức Giêsu cuốn sách Isaia cho
hiểu rằng người ta quy định phải
đọc một đoạn văn Isaia, tức là có
mộtchu kỳ các bài đọc Ngôn sứ cũng như
các bài đọc Lề Luật. Nhưng dường
như người đọc có thể chọn (x. câu 17b).
- Thần
Khí Chúa ngự trên tôi
(18): Bản văn trích Đệ II Isaia trong Lc là
mộtđoạn tổng hợp Is 61,1a.b.d; 58,6d; 61,2a. Hai
câu bị bỏ là Is 61,1c ở cuối Lc 4,18 (“băng bó
những tấm lòng tan nát”) và Is 61,2b ở cuối Lc 4,19
(“một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta”). Bỏ Is
61,1c thì không có hậu quả gì đáng kể, nhưng
bỏ Is 61,2b là cố tình bỏ đi mộtphương
diện tiêu cực của sứ điệp II Is.
- vì Chúa
đã xức dầu tấn phong tôi (18): Bản văn cho thấy là chính
Thiên Chúa đã cử Thánh Thần xuống trên Đấng
Mêsia như mộtchất dầu xức cho Đấng
Mêsia, hầu Người lên đường thi hành sứ
mạng cứu thế.
-
để tôi loan báo Tin Mừng (18): Bản văn Is Hy Lạp không rõ là “để
loan báo Tin Mừng” là mục tiêu của “Chúa đã xức
dầu” hay là mục tiêu của “Người đã sai tôi”.
Giáo sư Fitzmyer dịch theo bản gốc Hípri, “he has sent
me to preach good news to the poor” (dịch sát là “to announce good news
to the poor he sent me”).
-
người giúp việc hội đường (20): Ngoài ông trưởng hội
đường (archisynagôgos), còn có các nhân viên là “các kỳ
mục” (prebyteroi, Lc 7,3) và “các người giúp việc”
(“người cán sự”, NTT) (hypêretês, Cv 13,5) giống
như “ông từ nhà thờ, người phụ trách phòng
thánh”.
- ngồi
xuống (20): Khi
đọc Kinh Thánh, người ta đứng; còn khi trình
bày ý nghĩa bản văn (logos paraklêseôs, Cv 13,15),
người ta ngồi.
- chăm
chú nhìn Người (20):
Động từ atenizein là động từ Lc ưa
chuộng (x. Lc 22,56; Cv 1,10; 3,4.12; 6,15; 7,55; 10,4; 11,6; 13,9; 14,9;
23,1). Thường động từ này diễn tả
sự trân trọng và tin tưởng (là điểm của
bản văn này).
- Hôm nay (21; HL. sêmeron, x. 2,11 [Giáng sinh]; 3,22 [phép
Rửa]; 4,21; 5,26 [người bại liệt]; 13,32-33;
19,5.9 [Dakêu]; 23,43 [người trộm lành]): Đây là từ
ngữ quan trọng của Lc, có nghĩa là: Sau một thời
gian dài chờ đợi và hy vọng, lịch sử
cứu độ đã tới đỉnh cao hoàn tất.
Tất cả những gì các ngôn sứ nói đã thành sự
trong các hành động và các lời nói của Đức
Giêsu (x. 4,18.19; 5,26; 19,9).
- đã
ứng nghiệm lời Kinh Thánh (21): Kiểu nói này tương ứng
với kiểu nói “thời kỳ đã mãn của Mc 1,15.
Hôm nay, niềm an ủi cho Sion lại được
gửi đến cho dân Thiên Chúa (x. Lc 2,25; 7,22).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở
đầu Tin Mừng (1,1-4)
Lời
mở này phù hợp với quy tắc viết thời tác
giả Lc. Qua đoạn văn ngắn ngủi này, chúng ta
biết về phương pháp làm việc của tác
giả. Hôm nay chúng ta thừa kế vốn hiểu biết
về Đức Giêsu từ bao thế hệ. Các thông tin
được những con người có lương tâm
đánh giá, cân nhắc rồi viết ra. Như thế,
đức tin chúng ta không dựa trên những chuyện hoang
đường hoặc những chuyện ngụ ngôn do
tưởng tượng, nhưng chủ yếu dựa
trên các sự kiện lịch sử được
đảm bảo bởi các chứng nhân thà đổ máu
ra chứ không chịu phủ nhận các sự kiện
ấy.
* Tóm:
Bắt đầu sứ vụ (4,14-15)
Trong
khi các TMNL liên kết khởi đầu sứ vụ công
khai của Đức Giêsu với việc Gioan Tẩy
Giả bị tù (Mc 1,14; Mt 4,12), Lc lại bắt đầu
Tin Mừng của ngài bằng mộttóm tắt; còn
chuyện Gioan bị tù đã được ngài đưa
lên phía trước (3,19-20). Đoạn tóm tắt này cho
mộtcái nhìn tổng quát trên sứ vụ của
Đức Giêsu tại Galilê (những tóm tắt:
4,31-32.40-41; 6,17-19; 8,1-3; 19,47-48; 21,37-38). Tuy đoạn tóm này
không nhắc tới nội dung lời rao giảng của
Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa hay lời lêu
gọi hoán cải, bản văn vẫn chứa ba nét
đặc trưng của Lc: (a) Một leitmotiv là “quyền
năng Thần Khí” (c. 14). (b) Hoạt động của
Đức Giêsu được mô tả trước tiên
như mộtviệc “giảng dạy” (c. 15); ta hiểu
Đức Giêsu “giảng dạy” dưới quyền
năng Thần Khí. (c) Tính phổ quát vẫn
được Lc nhấn mạnh nơi câu
“được mọi người tôn vinh”.
* Thăm
viếng Nadarét (4,16-21)
Sau
đó, Đức Giêsu “đến Nadara, là nơi
Người sinh trưởng”. Theo thói quen, Người
đi vào hội đường ngày sabát. Qua vài câu đó, Lc
nhắc lại những gì ngài đã kể thuộc
thời thơ ấu của Đức Giêsu (x. 2,39-40.51-52).
Thành này được ngài gọi mộtlần duy nhất
ở đây là Nadara, nhưng không được gọi là
“quê hương” của Đức Giêsu, có thể vì
Đức Giêsu không chào đời tại đây, hoặc đúng
hơn, bởi vì ngài coi cả đất Israel là “quê
hương” Đức Giêsu (x. cc. 24-27). Trong cuộc cử
hành, Người đứng lên để đọc Sách
Thánh (c. 16). Theo tập tục, Người đứng lên
sau bài đọc Lề Luật (Ngũ Thư) để
đọc mộtđoạn sách các Ngôn sứ.
Dường như vào thời Đức Giêsu, người
ta không quy định rõ mộtchương trình đọc
các bản văn Ngôn sứ. Do đó, Đức Giêsu đã
chọn đọc Is 61. Bản văn được Lc ghi
lại là Is 61,1-2 theo Bản LXX, với một vài sửa
đổi.
Đối
với các thính giả của Đức Giêsu, bản
văn này là lời của mộtngôn sứ, mà họ có
thể nói là Người Tôi tớ Đức Chúa với
bốn Bài ca trứ danh (Is 42,1-7 có những gặp gỡ
rất gần với Is 61,1). Ngài loan báo mộtnăm
hồng ân có thể so sánh với năm đại xá theo
luật Môsê (Lv 25,8-17), nhưng ở đây không phải là
con người nhưng chính Thiên Chúa sẽ can thiệp với
ân sủng của Ngài. Còn tự do mà Ngài loan báo không phải
là việc tha hoàn toàn các món nợ giữa người Do
Thái với nhau, mà là mộtơn cứu độ tuyệt
vời thuộc về thời cánh chung, cũng có thể
gọi là Nước Thiên Chúa, mộtthời đại
được nồng nhiệt chờ mong.
Nghe
đọc đoạn sách ấy, niềm hy vọng bùng lên
trong các con tim, và tất cả các thính giả của
Đức Giêsu chờ đợi bài giảng minh giải
bản văn đầy hứa hẹn ấy.
“Người
bắt đầu nói với họ: «Hôm nay đã ứng
nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe»” (4,21). Qua câu
này, Đức Giêsu cho thấy chiều hướng của
bài giảng của Người. Người sẽ
hiện tại hóa nơi bản thân Người nội
dung của lời sấm Người vừa đọc.
Khi làm như thế, Người đã xử sự như
ngôn sứ.
Từ
ngữ đầu tiên rất hệ trọng: sự
hiện diện của Đức Giêsu chính là mộtgiai
đoạn độc đáo trong thời gian cứu
độ, được diễn tả bằng “hôm nay”.
Đức Giêsu áp dụng sấm ngôn Is cho chính mình. Khi
chịu phép rửa, Người đã nhận lấy Thánh
Thần như mộtviệc xức dầu đã
đưa lại cho Người phận vụ thánh thiêng
là làm Đấng Mêsia. Nhưng Người không phải là
mộtMêsia như mộtvị vua trần thế;
để tránh hiểu lầm, Đức Giêsu không xác
định công khai Người là Đấng Mêsia (x. 4,41)
và chỉ mạc khải như thế cho riêng các môn
đệ (9,18-21). Tại Nadarét, vào lúc bắt đầu
sức mạng, Người chỉ nhận mình là như
vị ngôn sứ mang Tin Mừng cứu độ. Bản
văn Is có lẽ đã cung cấp cho Người dung
mạo Người Tôi Tớ của Đức Chúa (Yhwh),
và chắc chắn các đề tài cốt yếu của
Tin Mừng của Người: ưu tiên cho người
nghèo, giải phóng những kẻ bị giam cầm và
những người bị áp bức, cho người mù
được thấy. Những từ ngữ này cho
thấy Đức Giêsu chiếu cố đến những
người thấp hèn. Nhưng các từ ngữ này còn cho
thấy rõ hơn nữa các đòi hỏi và các ân huệ
của Người: kêu gọi làm tâm hồn nghèo hèn,
hứa ban sự giải phóng cho những người
tội lỗi đang bị sự dữ khống chế,
ban khả năng nhìn cho những ai sẽ đi đến
với với đức tin (trong cách giải thích cái nhìn
theo nghĩa “thiêng liêng” này, Đức Giêsu trung thành với
tư tưởng của Is 29,18-19 và 35,5-6).
Trong
Is 61,2, vị ngôn sứ vừa công bố mộtnăm
hồng ân, vừa loan báo ngày báo phục; đây là
đề tài truyền thống của các ngôn sứ liên
quan đến Ngày của Đức Chúa, mộtngày vừa
là ngày phán xét vừa là ngày cứu độ. Đức
Giêsu không nói đến phán xét. Thật ra sau này Người
có ám chỉ nhiều đến phán xét (x. Lc 6,20-26; 9,26;
10,12-15; 11,30-32; 12,8-9; 12,35-48.49-59; 13,23-30; 16,1-8; 17,1-2; 17,22-37;
18,8; 19,11-27), còn ở đây Người chỉ nhìn
đến đến sứ mạng trần thế
của Người, là “thời gian” ơn cứu
độ được ban cho Israel; chính thời gian này
được Người gọi là “năm hồng ân
của Đức Chúa”, thời gian Thiên Chúa chiếu cố
đến dân. Nói tóm, tư tưởng của Đức
Giêsu ở đây trong Tin Mừng Lc giống với lời
Đức Giêsu loan báo trong Mc 1,15 và Mt 4,17, “Nước
Trời đã đến gần”, người ta có thể
đi vào Nước Thiên Chúa nhờ sứ mạng của Đức
Giêsu. Tuy nhiên, công thức của Lc chính xác hơn: nó phân
biệt thời gian hoạt động của Đức
Giêsu và thời gian hoàn tất cánh chung; nó xác định
chính xác hơn vai trò của Đức Giêsu, các ân huệ và
các đòi hỏi của Người.
Tác
giả Lc biết rõ là trước sự cố Nadarét này,
Đức Giêsu đã hoạt động ở Caphácnaum và
ngài cũng cho biết như thế (4,14-15; 4,23; x. Cv 1,8).
Nhưng ngài vẫn muốn đặt truyện này vào ngày
khai mạc công việc rao giảng của Đức Giêsu
và cho thấy chính Đức Giêsu xác định sứ
mạng của Người ngay đầu Tin Mừng. Câu
truyện đã xảy ra trong mộthội
đường: đó là phương pháp của
Đức Giêsu (4,15.33.44; 6,6; 13,10); đó cũng là cách
thực hành của các nhà truyền giáo trong các xứ sở
ngoại giáo (Cv 9,20; 13,3.14.44; 14,1; 17,1.10.17; 18,4.7.19; 19,8). Tác
giả muốn cho thấy rằng sứ điệp
cứu độ được bao giờ cũng
được ngỏ với người Do Thái
trước khởi đi từ Kinh Thánh và trong hành vi phụng
tự: Tân Ước hoàn tất Cựu Ước.
+ Kết
luận
Qua
bản văn Lc, ta thấy Đức Giêsu giới
thiệu chương trình hoạt động của
Người: Người là Đấng Mêsia
được giới thiệu ở phép rửa nay
xuất hiện trước công chúng như là vị ngôn
sứ có quyền năng Thánh Thần; Người sẽ
ưu tiên ngỏ lời với những người nghèo,
những người chịu đau khổ, những
người bị áp bức; Người mang đến
cho họ sự giải phóng thiêng liêng, cho họ thấy
chương trình của Thiên Chúa. Đối với Israel, sứ mạng trần thế của
Người là thời gian ân sủng, mà họ phải tận
dụng “hôm nay”. Nay không còn phải là những con
người được tha các món nợ và tìm lại
được tự do dân sự. Nay chính là Đức Chúa
(Yhwh), thân hành đến nơi bản thân Đấng
được xức dầu của Ngài, để tha
nợ cho nhân loại và giải thoát nhân loại khỏi ách
nô lệ sự dữ.
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Sự kiện Kitô giáo chủ yếu dựa trên can
thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử cho thấy Kitô
giáo khác mọi tôn giáo khác. Thiên Chúa chúng ta là mộtThiên Chúa
của các sự kiện, những sự kiện thực
hữu; Ngài không phải là mộtthần tượng
hoặc mộttư tưởng thuần túy. Vị Thiên
Chúa này lại rất quan tâm đến con người
đến độ đi vào trong lịch sử cụ
thể của con người. Chính vị Thiên Chúa này hôm nay
vẫn đang kêu gọi chúng ta qua Đức Giêsu, con
người cụ thể làng Nadarét.
2.
Ngay từ đầu, Đức Giêsu liên kết hoạt
động của Người với Kinh Thánh, với
Lời Chúa. Người khẳng định mạnh
mẽ rằng nhờ Người, Thiên Chúa hoàn tất các
lời Ngài đã hứa. Như thế, ngay từ
đầu đã có câu trả lời về uy quyền
của Đức Giêsu, nghĩa là về quyền bính
đang đứng đàng sau Người: “Thần Khí Chúa
ngự trên tôi”. Đức Giêsu có sức mạnh và
quyền năng Thiên Chúa. Người cũng khẳng
định rằng Thiên Chúa đã sai phái Người. Lời
khẳng định này có giá trị cho Người hơn
là cho bất cứ ngôn sứ nào, bởi vì Người phát
xuất trực tiếp từ Thiên Chúa trong tư cách là Con
Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa nói và hành động qua
Người, toàn thể công trình của Người là công
trình cứu độ và phải được đón tiếp
với lòng biết ơn và lòng tin.
3.
Tại sao lại có hoàn cảnh của những
người nghèo, những người đói khát, những
người bị hành hạ, những người đau
ốm, tuyệt vọng và mọi kẻ thất thế và
phải gánh chịu một số phận gian khổ?
Họ không may, trong khi những người khác
được may mắn? Có thể có chăng cho họ
việc thay đổi số phận, hay là họ cứ
phải cam chịu như thế? Phải chăng Thiên Chúa
muốn như thế? Đức Giêsu đã loan báo sứ
điệp của Người cho những con người
như thế. Thiên Chúa không hất hủi họ. Thiên Chúa
ở về phía họ và chiếu cố đến họ.
Thật ra sứ điệp của Đức Giêsu không
phải là mộtchương trình cải cách xã hội.
Người không cổ võ việc phân chia đồng
đều các của cải. Sứ điệp của
Người hướng niềm hy vọng của
người nghèo không vào của cải vật chất,
nhưng vào Thiên Chúa.
4.
Tuy nhiên, chúng ta phải ra sức loại trừ các hoàn
cảnh túng quẫn và bất công. Niềm hy vọng
Đức Giêsu mang lại không phải là mộtngày nào
đó, loài người sẽ đạt tới chỗ
loại từ mọi túng quẫn và có thể thiết
lập công lý bình đẳng. Sứ điệp của Ngài
nói rằng Thiên Chúa sẽ ban cho người nghèo ơn
cứu độ trọn vẹn. Đàng khác, chỉ nguyên
việc là người nghèo, người sa cơ thất
thế, không phải là đã đủ. Một
người nghèo mà đặt hết niềm cậy trông
nơi của cải trần thế thì vẫn đang
lạc đường. Hôm nay, Đức Giêsu tiếp
tục công cuộc cứu thế trong Hội Thánh và
nhờ Hội Thánh. Người cứu thế qua các bí
tích. Người đến với con người qua các
thừa tác viên và qua tất cả các Kitô hữu đã
hưởng nhờ hoạt động từ bi
thương xót của Người. Chúng ta phải nối
dài hoạt động của Đức Kitô ra, bằng
cách gieo rắc niềm vui và ánh sáng, thoa dịu các nỗi
khốn cùng về thể lý và tinh thần, giải thoát
người ta khỏi những nỗi lo sợ khiến tê
liệt, đưa người rta ra khỏi sự dốt
nát, nâng đỡ người sống trong cô đơn,
chế giảm các nỗi hiềm khích…
|