Lời tự thuật của tu sĩ Ananda
Tôi là một trong những tu
sĩ Phật giáo kỳ cựu trong nước thuộc ngành Phật Sinhala. Tôi còn là thành viên
của Hội đồng tu sĩ Phật Giáo. Một cách vắn tắt có thể nói tôi là một trong những
tu sĩ được những Phật tử ngoan đạo sống trong những vùng chung quanh "kính
thờ".
Nhưng một điều đáng buồn
là tôi không nhận được sự an bình thật sự qua cách sống và lề lối tổ chức của
tu viện. Đôi khi cảm thấy như mình là một người bị nhốt tù trong bốn bức tường
chật hẹp. Đó là lý do giải thích tại sao tôi ghi tên học tại Đại học, tiếp tục
chương trình học vấn dang dở.
Khoảng thời gian đó, với một
tâm trạng như thế, tôi vẫn luôn dõi tìm một lối thoát, dĩ nhiên một lối thoát
hiểu theo nghĩa giải thoát thiêng liêng. Tôi không muốn từ bỏ chiếc áo cà sa,
nhất là tôi rất yêu chuộng giáo huấn Dhamma của Đức Phật Tổ, nhưng một hạnh
phúc trong an bình thật sự tôi vẫn chưa nhận được. Tôi biết rằng niềm hạnh phúc
này hiện hữu và con người có thể đạt được nó, nếu chịu khó tìm tòi. Nhưng coi sự
tịch diệt như là cứu cánh tối hậu, hay tiêu diệt đi mọi ước muốn trần thế trong
con người đều không phải là những điều có thể tạo cho tôi sự an bình thiêng
liêng.
Như là một việc đã được sắp xếp từ bao giờ.
Vào khoảng năm 1961, tôi gặp một Linh mục Công giáo, không phải vì chiếc áo
dòng ông đang mặc hấp dẫn tôi, nhưng có lẽ vì cái nhân cách đặc biệt thoát ra từ
con người ông, và tấm lòng nhân ái vị tha của ông đối với mọi người. Tôi không
ngần ngại làm quen với ông. Theo tôi nhận xét, ông có thể là người đã tìm thấy
hạnh phúc thật thể hiện rõ ràng qua cách sống.
Ông bạn mới này của tôi dường như hiểu biết rất
nhiều về giáo thuyết nhà Phật. Thế mà trái lại, kiến thức của tôi về Công giáo
gần như không có. Những gì tôi biết chỉ là những điều tôi đã được nghe do những
người Phật tử phán đoán, giải thích, phê bình chủ quan về Công giáo. Tôi biết rằng
đó chỉ là những thành kiến sai lầm về Giáo hội này.
Do sự chủ quan khi nhìn
vào những ngôi nhà thờ xây cất theo Tây phương và lối sống Âu hóa của các Linh
mục, tôi vẫn còn ngần ngại trong việc tìm hiểu thêm về Kitô giáo. Tôi cho rằng
một tôn giáo không hoà mình được với phong hoá và lề thói địa phương thì làm
sao có thể loan truyền được chân lý cho dân tộc đó và vì vậy làm sao có thể đáp
ứng được sự giải thoát thật sự tôi đang kiếm tìm.
Tuy nhiên, tôi vẫn không bỏ
qua những cơ hội để có thể bàn luận và chất vấn Cha X. trong tình thân hữu tôi
đã có được với Cha, nhất là để thử nghiệm những điểm đối kháng chống lại các
Thày tu Công giáo. Đối với tôi, các Linh mục Công giáo chỉ là những người đánh
cá ra khơi với chiếc bụng lép xẹp, dụ dỗ những con cá ngây thơ bằng miếng mồi
giả tạo.
Nhưng chỉ ngay sau đó
thôi, tôi thấy rằng mình sai lầm, vì tôi khám phá ra rằng ông Linh mục này
không hề mảy may có ý định khuyến dụ tôi về với tôn giáo ông đang theo. Trái lại,
trong sự ngạc nhiên của tôi, ông Linh mục này lại còn bày tỏ ao ước được thử sống
lối sống của các tu sĩ Phật giáo nữa. Ông cho biết, ông chấp nhận một số những
nguyên tắc của Phật giáo và ông đã từng áp dụng phương thế Dhammapada để tĩnh
tâm. Ông lại còn là người theo chủ trương ahimsa (không dùng bạo lực) với các
sinh vật thụ tạo nữa.
Khi đã thân hơn với ông, tôi cho ông biết về
những điều tôi đã nghe phê bình về Giáo hội Kitô giáo. Tôi tưởng ông sẽ nổi giận,
lên tiếng bênh vực cho giáo hội. Nhưng trái lại, với một thái độ hết sức bình
thản ông nói rằng ông không hề trách oán những người đã phê bình Giáo Hội Công
giáo. Có thể có những sai quấy trong Giáo hội, nhưng tất cả nhờ vào sự soi sáng
thiêng liêng của Chúa, Giáo hội đã không đi lạc lối và tan rã.
Khi đề cập đến những khuyết
điểm của Giáo hội hay chính là những khuyết điểm của những con người trong Giáo
Hội, ông nhấn mạnh đến sự hiện diện của ơn Chúa. Khi bắt đầu thi hành những
phương thế sống, người ta nghĩ rằng họ đang làm những việc lành tốt, nhưng khi
kết thúc nó có thể đưa đến những thiệt hại nào đó. Chính sự hiện diện của quân
đội Bồ đào Nha tại Sri Lanka đã là trở ngại cho những nhà truyền giáo trong
công việc rao giảng Tin Mừng tại quốc gia này. Thật là một điều tự nhiên, người
ta phán xét về một tôn giáo qua sự tiếp xúc bề ngoài với những người theo tôn
giáo ấy.
Điều này tôi có kinh nghiệm
trong đời sống: Phái Dhamma cực lực chống lại giai cấp quí tộc, nhưng phái
Sangha lại chấp nhận và tán thành giai cấp này.
Ông bạn Linh mục của tôi
không phải chỉ sửa đổi lại những nhận thức sai lầm của tôi về Giáo hội Công
giáo, nhưng dần dần đã giúp tôi hiểu biết nhiều hơn về giáo huấn của Giáo hội
và cách sống đạo. Ông không nói bằng lời, nhưng nói bằng chính đời sống của
ông. Ông biểu tỏ một hạnh phúc thật sự khi được sống trong đời sống nhiệm nhặt
của tu viện. Ông cho biết rằng chính đời sống khổ hạnh của nhà Chúa là yếu tố rất
cần thiết cho Giáo Hội Công giáo tại Sri Lanka. Ông muốn Kitô giáo hòa nhập vào
lối sống địa phương để Tin Mừng của Chúa Kitô có thể được thể hiện và chấp nhận
dễ dàng hơn cho những người đã sẵn có một lề lối sống đạo, biết tôn trọng luân
lý. Tôi nghĩ rằng đây có thể được coi là một cách thế thật tốt thể hiện vai trò
chứng nhân của Chúa Kitô trong một xã hội Phật giáo.
Một ngày nọ, tôi có dịp hỏi ông về "niềm
hạnh phúc thật". Ông cho rằng đây là do Ơn Chúa. Chợt nhận thấy tôi không
hiểu danh từ "Ơn Chúa", ông vội giải thích thêm: "Để hiểu về nguồn
ơn thiêng liêng này, người ta cần cảm nhận được nó trước đã".
"Cảm nhận và nhận chân được chân lý một sự
vật" là một cứu cánh của con người. Từ thuở thiếu thời, tôi đã được Phật Tổ
khích lệ để kiếm tìm, nhưng hôm nay đây sự khích lệ đó đã đổi chiều khiến tôi
hướng về Kitô giáo.
Sau buổi nói chuyện, ông
trao cho tôi cuốn Kristu Anusaraya, Bản dịch của Sinhala, tác phẩm Gương Chúa
Giêsu của Thomas à Kempis. Tôi đọc cuốn sách này thật kỹ và nhận ra rằng nó đã
giúp tôi tiến được một bước thật xa, xa hơn bước tiến tôi đã có được trong suốt
những năm tĩnh tâm trong nhà Chùa. Tác giả diễn giải sự hy sinh với một nhãn
quan cao hơn. Đặt căn bản vào Sách Phúc Âm, tác giả cho thấy tình yêu của Thiên
Chúa là động lực chính của sự hy sinh.
Tôi nhận ra rằng, người Kitô hữu quan niệm
Thiên Chúa là tối thượng so với tất cả thụ tạo, và tình yêu vĩ đại nhất của con người so với tình yêu thiêng liêng của
Thiên Chúa chỉ là một hạt bụi vì Ngài là Đấng Sáng tạo. Như thế, khi người Kitô
hữu hy sinh, họ không hy sinh vì phần rỗi cá nhân họ mà họ hy sinh cho tình yêu
của Người-Yêu-Thương-Họ. Điều này khiến tôi an lòng. Sự an lòng này, tôi nghĩ
phải chăng là Ơn Chúa? Vâng, chính là Ơn Chúa trong tôi.
Rồi, ông bạn dìu tôi vào Tân Ước, nhưng tiếc rằng
Sách Tân Ước chưa được dịch toàn bộ sang tiếng Sinhala, mà vốn liếng Anh ngữ của
tôi lại quá nghèo nàn.
Học thêm Anh ngữ, tôi đọc sách của các tác giả
Kitô giáo. Ngay cả trong những bài thơ cũng đầy dẫy những hình ảnh về Thiên
Chúa: Nào là Thiên Chúa Ba Ngôi, Sự Giáng Sinh của Con Một Thiên Chúa, Mẹ
Maria, Thiên Đàng-Địa Ngục v.v... Đầu tiên, những ngôn từ này làm tôi chán
ngán, ông bạn Linh mục khuyến khích tôi, những lời giải thích chấm dứt bằng hai
chữ "màu nhiệm" khiến
tôi như Phaolô nhưng gặp chướng ngại vật cản bước trên "Đường đến
Damascus" gặp Chúa. Tôi may mắn lại được tác phẩm "Lead, Kindly
Light" của Đức Hồng Y Newman nâng đỡ.
Một Phật tử không ưa những
màu nhiệm, hơn nữa "màu nhiệm" tiếng Sinhala là "abirahasa"
không có nghĩa giống chữ "màu nhiệm" của Giáo hội Công giáo, nó chỉ
có nghĩa là "một bí mật tuyệt đối".
Tuy nhiên, với sự giải thích rõ ràng của ông bạn
Công giáo, tôi dần dần vượt qua được những khó khăn này. Ông giải thích rằng
cho đến bây giờ, đối với các nhà khoa học với kỹ thuật tân kỳ hiện đại, cơ thể
con người vẫn còn là một bí nhiệm. Đó là nói về phần thân xác, vậy thì phần
tinh thần của con người còn phải vượt xa trí óc của nhân loại đến như thế nào?
Con đường tôi tìm hiểu về Đức Tin Kitô giáo
như thế đó. Không phải là một Đức Tin mù quáng, mà là một Đức Tin với tất cả sự
hiểu biết, lý luận. Hơn nữa, nó còn giải đáp thỏa đáng trong quan niệm tự nhiên
về con người. Nhờ đó, tôi nhận biết được bản tính nhân loại trong con người của
Đấng Cứu Thế.
Điều làm tôi khâm phục nhất
trong Giáo Hội đó là sự lo lắng của những người Kitô hữu đối với tha nhân: Những
người ốm đau, những kẻ bần cùng, những người tội lỗi... Tôi quyết định đi theo
Chúa để thực hiện giới răn "yêu người như yêu chính bản thân mình".
Rồi tôi nhận thấy đời sống
tôi thay đổi, không còn bị giam trong bốn bức tường chật hẹp nữa, tôi hít thở bầu
không khí tự do. Tôi nhìn thấy một ngôi sao từ trên cao đang chờ dẫn đường cho
tôi đến một chân trời hạnh phúc vĩnh cửu. Tôi suy niệm mỗi ngày bằng Sách Phúc
Âm và cuốn "Gương Chúa Giêsu".
Năm 1963, tôi đậu kỳ thi nhập học và theo học
tại Đại học. Anh văn của tôi khá hơn khiến tôi đã có thể đọc được Sách Phúc Âm
và các sách khác về Kitô giáo bằng Anh ngữ.
Một cuốn sách giá trị tôi
được đọc trong khoảng thời gian này đó là cuốn sách ghi lại Công Đồng Vaticanô
thứ Hai. Cho đến lúc đó tôi mới thật sự thấy rằng việc tôn giáo phải thay đổi hợp
với thời đại là quan trọng, đặc biệt cho các thế hệ trẻ ngày nay.
Công việc học dù bận rộn, nhưng cũng không khiến
tôi chấm dứt việc tìm hiểu thêm về Giáo Hội. Tôi học rất chăm và được các giáo
sư khen ngợi. Tôi thấy đời sống sao ý vị quá, đặc biệt khi trong đời sống đó ta
biết phục vụ mọi người qua việc hy sinh chính con người mình.
Sau khi tốt nghiệp, tôi không còn ý định trở lại
tu viện nữa. Không phải vì tôi có thể tìm được một công việc tốt hay lý do nào
khác, nhưng lý do chính để tôi cởi bỏ chiếc áo cà-sa, đó là tôi đã tìm ra Chúa
Kitô. Người là Thiên Chúa và là Thày tôi. Người đã đến tìm tôi, chỉ cho tôi con
đường cứu rỗi với hạnh phúc vĩnh cửu... Tôi biết, quyết định của tôi sẽ đưa đến
việc tôi phải đối diện với những khó khăn khi đi tìm việc làm.
Tôi không có khả năng để diễn đạt hết những cảm
xúc của tôi trong quá trình trở lại với Chúa. Bao nhiêu những khó khăn vất vả,
nhưng tôi không thể chờ đợi được nữa rồi. Ý Chúa là như thế. Tôi học hỏi về
Giáo lý, về cách sống đạo và sẵn sàng.
Tìm được sự bình an là kết quả đầu tiên của
con đường tôn giáo. Chắc chắn tôi sẽ có được sự bình an này khi tôi được nhận
vào Giáo Hội. Nếu tôi phải tóm tắt lại một cách ngắn gọn những gì Giáo hội có
thể đã cho tôi khi tôi trở thành con cái Chúa thì tôi chỉ nói được đó là
"Đời Sống". Tôi muốn nói một đời sống mới, được soi sáng và hướng dẫn
do ân sủng thiêng liêng.
Ananda
|