BÀI
LỜI CHÚA 39
Thương linh hỒn bẢy
mỐi (Phần IV)
Kỳ trước, Kinh
Thánh thuật truyện tiên tri Yô-na bỏ trốn sứ
vụ rao giảng, hôm nay, Kinh Thánh cho ta nghe chuyện ngược
lại : tiên tri Ysaia tự dâng mình đi rao giảng cho dân.
Trích sách
Tiên tri Ysaia, ch.6
Tiên tri Ysaia kể rằng : “Lối năm
-742, Vua Ô-zy-a chết, tôi đã được thấy Thiên
Chúa : Người ngự trên ngai cao thẳm, hoàng bào của
Người xòa lấp Đền Thờ. Chung quanh
Người có những thần Sê-ra-phim chầu hầu,
mỗi vị có sáu cánh : hai cánh phủ mặt, hai cánh che
mình, hai cánh còn lại để bay (mà đi thi hành lệnh
Chúa). Các vị ấy luôn luôn đối đáp nhau mà tung hô
Thiên Chúa rằng :
- Chúa là
Đấng Thánh, Cực Thánh, ngàn trùng Chí Thánh ! Yavê các cơ
binh, trời đất đầy vinh quang Chúa !
Tiếng
hoan hô, chúc tụng vang rền, làm các cửa Đền
Thờ rung rinh và Đền Thờ nghi ngút khói. Ysaia run
sợ than :
- Tôi chết
mất, các thiên thần còn không được nhìn mặt
Chúa, mà tôi đã được thấy Người. Tôi là
kẻ tội lỗi, môi miệng đầy nhơ uế
!
Bấy giờ, một
vị Sê-ra-phim bay đến, gắp một cục than
hồng trên hương án Đền Thờ, (xem hình) đụng
vào miệng lưỡi tôi mà nói :
- Lửa
hồng này đã tẩy sạch miệng lưỡi
ngươi, tất cả tội lỗi của
ngươi được tha.
Ngay
đó, tiếng Yavê phán :
- Ta sẽ sai ai đi rao giảng
lời Ta cho dân chúng ?
Ysaia
sốt sắng thưa ngay :
- Này tôi đây ! Người cứ
sai tôi !
Yavê
phán :
- Vậy ngươi hãy đi rao
giảng cho dân! Nhưng hãy nhớ rằng : đừng ngã
lòng, dân này cứng đầu, nó nghe mà không hiểu, nhìn mà
không thấy, chúng không trở lại mà được tha
thứ.
Tôi
hỏi :
- Sự ấy sẽ kéo dài
đến bao giờ ?
Chúa
đáp :
- Cho
đến khi các thành chúng bị tàn phá tan hoang, nhà không
người ở, đất không ai trồng !...
* Đó là
Lời Chúa ! - Tạ ơn Chúa !
Suy
niệm Lời Chúa
Được sai, thế là Ysaia đi rao giảng,
ông đã trở thành một tiên tri lớn nhất. Mặc
dù dân chúng không nghe, không tin lời giảng, ông cứ thi hành
nhiệm vụ, ngày đêm bất kể, vì nhiệt thành lo
cho dân được cứu độ. Nhiều lúc,
thấy dân chúng và vua quan cứng lòng, chai đá, ông giận
run lên, hét những lời đe dọa nẩy lửa. Lúc
khác, thấy trước cảnh tàn phá, thành hoang, nhà
trống, dân chúng sẽ bị lưu đầy khốn
khổ vì tội lỗi mà không ăn năn hối cải,
ông đau đớn thốt lên những lời than ai oán xé
nát tâm can.
Chúng ta cũng vậy, mỗi người hãy là
một Ysaia khác hiến thân rao giảng Lời Chúa khi có
dịp, tùy khả năng và thời giờ của mình, vì
vinh quang Thiên Chúa và vì phần ích thiêng liêng cho người
đời.
Trong tinh thần ấy, ta đọc tiếp các
mối thương linh hồn.
Mối thương linh hồn thứ
ba : Răn bảo kẻ mê muội :
Không
kể tội lỗi, ngày nay còn một khốn khó khác là trí
khôn mê muội, dốt nát về tôn giáo, không thông giáo lý, tôn
thờ những sự tà thần, ngẫu tượng
nhảm nhí…. Từ hai ngàn năm trước, trong thư
gửi tín hữu Rôma, Thánh Tông đồ Phaolô đã mô
tả không sai một nét nào :
“Quả vậy, những gì người ta không
thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức
là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của
Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ
trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy
được qua những công trình của Người. Do
đó, họ không thể tự bào chữa được,
vì tuy biết
Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay cảm tạ
Người cho phải đạo. Trái lại, đầu
óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ
hoá ra mê muội. Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã
trở nên điên rồ. Thay vì Thiên Chúa vinh quang bất
tử, họ đã thờ hình tượng người
phàm là loài phải chết, hay hình tượng các loài chim
chóc, thú vật, rắn rết…. Thay vì Thiên Chúa thật, họ đã theo những
thần giả ; họ đã tôn thờ những loài
thọ tạo, thay vì chính Đấng Tạo Hoá.” (Rm 1.20-25).
Còn về mặt lương tâm và luân lý thì mù mờ,
không biết cái gì làm được, cái gì không
được phép làm : cái này có tội không, cái kia có
tội không ? Tỉ dụ : Đặt vòng xoắn, cột
buồng trứng có tội không ? Ngừa thai là điều
làm được hay bị cấm? Viết lý lịch mà
gạch bỏ chữ Thiên Chúa giáo đi có là chối
đạo hay chưa ? Mà trong số những người
mê muội, họ không phải như thời Ysaia
đều cứng cổ cả đâu ! Trái lại, có
rất nhiều tâm hồn thiện chí, khao khát biết
sự thật. Và có khi các kẻ mê muội lại chính là
người nhà của mình : chồng, vợ, con cháu…
Nếu không noi gương Ysaia, đến khai sáng cho
họ hiểu đường lối của Chúa, thì
tội nghiệp biết bao !
Chính Chúa Giêsu đã thấy đau lòng xót dạ
trước cảnh dân chúng lầm than vất vưởng
! Sách Tin Mừng thuật : Một hôm Đức Giêsu
bảo các môn đệ : “Hãy
đi ra một nơi hiu quạnh, thanh vắng mà nghỉ
ngơi đôi chút !”. Vậy thày trò lên đò đi
đến một nơi vắng vẻ. Ai ngờ, dò
biết được các ngài đến đó, dân từ
khắp các làng xóm chung quanh rủ nhau kéo đến, và còn
đến trước các ngài nữa. Vừa lên khỏi
đò, Chúa Giêsu thấy dân chúng đông đảo, thì “Ngài
chạnh lòng thương xót họ, vì họ như cừu
chiên không có người chăn dắt, dạy dỗ”.
Và dù mỏi mệt, chưa ăn uống gì, Ngài cũng lên
tiếng giảng dạy cho họ... dạy mãi
đến tận chiều, các tông đồ phải
đến xin Chúa cho họ giải tán đi vào thôn xóm xung quanh
mua thức ăn. Nhưng hôm ấy, Chúa thương đã
làm phép lạ nuôi họ no nê cả phần xác nữa,
bằng việc hóa bánh ra nhiều (xem Mc 6.30-44).
Sau Chúa Giêsu, đến lượt các tông đồ
cũng vậy, lo chia tay nhau mỗi người một
phương giảng dạy kẻ mê muội, lầm
đường lạc lối. Không chỉ có các tông
đồ mà thời Giáo Hội sơ khai, các giáo dân cũng
lo việc dạy dỗ ấy. Như ông A-pô-lô, ông vốn
là người Do thái nên thông thạo Kinh Thánh ; sau khi học
biết đạo Chúa Giêsu, tâm hồn ông nồng nhiệt
mến Chúa, thương linh hồn, nên dù là giáo dân, ông
cũng tìm mọi dịp giảng dạy về Chúa Giêsu
một cách xác đáng. Lại có cặp vợ chồng
Pri-ki-la và A-ki-la, cũng là bạn với Thánh Phaolô, nghe tin
ông A-pô-lô như vậy, đã đến gặp ông và trình
bày cặn kẽ hơn về đạo Chúa Kitô ... (x. Cv
18.24-28).
Ôi, chớ gì xứ đạo chúng ta ngày nay mà có
được một số người, nam nữ,
trẻ già như mấy người ấy, thì thật là
phúc lớn !
Bây giờ
đề cập đến
Mối thứ tư : An ủi kẻ
âu lo
Trong cuộc sống náo nhiệt ngày nay, nhìn cảnh
quần áo chưng diện đúng mốt thời trang,
cảnh ăn uống lu bù quán nọ, tiệm kia, cảnh
xô nhau ào ào đi mua sắm, nhất là những nét mặt
hớn hở của những người được thi
đậu, được tăng lương, lên chức
v.v..., tưởng chừng ai cũng sung sướng,
hạnh phúc. Có nhìn kỹ hơn mới thấy : con
người thường bị bao nỗi buồn bã làm tê
liệt tâm hồn. Khỏi cần kể, ai cũng
biết các điều ấy rồi ! Đời là bể
dâu mà ! Mỗi người mỗi cảnh, mỗi
đời mỗi cơn đau : “Đoạn trường
ai có qua cầu mới hay !”.
Thánh Phaolô cũng trải qua nhiều kinh nghiệm
đau đớn, nên ông mới nghiệm ra rằng : “Thiên Chúa là Cha đầy
thương xót và là Chúa mọi nguồn an ủi.
Người an ủi ta trong mọi cơn gian truân, khốn
khó, ngõ hầu ta có thể an ủi kẻ khác” (2Cr 1.3-4).
Cái hay trong câu ấy của Thánh Phaolô là ông đã
được kinh nghiệm thấy trong bao nỗi gian
truân, Thiên Chúa đã an ủi và nâng đỡ ông, nên ông
mời ta hãy nhớ lại bao lần trong các khốn khó,
đau khổ của đời ta, ta đã nếm
được sự nâng đỡ an ủi và
thương xót của Chúa, thì ông nói : đến
lượt ta, ta cũng hãy an ủi kẻ đau buồn
như vậy. Thiên Chúa an ủi ta, ta đem niềm an
ủi ấy biếu cho người khác, và cứ thế,
dòng sông tình yêu chảy xuôi mãi xuống, tràn lan ra...
Nhiều
lúc, đứng trước đau khổ lớn lao tràn
ngập tâm hồn của một người, chẳng
hạn một cái chết của người họ yêu
thương, ta cảm thấy bất lực, không biết
nói lời gì an ủi - lời nói của ta, thấy nó quá
nhạt nhẽo... Lúc ấy, chỉ còn cách : im lặng và
cầu nguyện cho họ : xin Cha là nguồn an ủi
đến an ủi họ thay ta. Nếu có khả năng,
thì lấy một vài Lời Chúa hợp tình cảnh mà nâng
đỡ tâm hồn họ. Ví dụ, trong cảnh có
người thân chết, lấy lời Chúa dạy về
cuộc phục sinh, và Chúa đến lại...tỉ
dụ mấy đoạn sau đây :
“Anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin
vào Thầy. 2 Trong nhà Cha Thầy, có
nhiều chỗ ở ; nếu không, Thầy đã nói
với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh
em. 3 Nếu Thầy đi dọn
chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh
em về với Thầy, để Thầy ở đâu,
anh em cũng ở đó. 4 Và Thầy
đi đâu, thì anh em biết đường rồi.” (Ga
14.1-4)
“Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn
thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết
gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những
người khác, là những người không có niềm hy
vọng. Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giê-su đã
chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin
rằng những người đã an giấc trong
Đức Giê-su, sẽ được Thiên Chúa đưa
về cùng Đức Giê-su.… Như thế, chúng ta sẽ
được ở cùng Chúa mãi mãi. Vậy anh em hãy dùng
những lời ấy mà an ủi nhau. (x. 1Tx 4.13-18).
Cần nhất đừng để các người
âu sầu ở một mình, lẻ loi, cô độc... Khi có
thể, ta làm họ nguôi ngoai bằng cách cứ để
họ khóc cho đã cho vơi sầu ; lúc khác, bằng cách
xin họ kể cho mình nghe duyên cớ làm họ buồn,
hoặc hỏi xem họ có cần ta giúp đỡ gì không,
hoặc tích cực nữa là làm họ giải trí, quên
đi nỗi sầu, chẳng hạn mời họ đi
dạo, đi xem phim hay cho mượn một cuốn
truyện hấp dẫn...
Tích truyện
Người ta kể chuyện nhạc sĩ
Đức Bét-tô-ven, một hôm đi ngang qua nhà kia, từ
trong nhà vẳng ra tiếng nức nở nghe vô cùng não
nuột. Dừng lại nghe một lát, tâm can ông bùi ngùi xúc
động. Nhạc sĩ không cầm lòng nổi, ông nhè
nhẹ mở cửa bước vào. Một cảnh
tượng buồn thảm hiện ra trước mắt
: một bà mẹ trẻ đang khóc thương
trước thi hài đứa con trai độc nhất
của bà, đang còn phủ khăn liệm. Nỗi đau
thương bi lụy ấy, ai có lời nào an ủi
nổi. Chợt nhạc sĩ thấy loé ra trong đầu
một sáng kiến. Ông êm ả đến cạnh chiếc
đàn phong cầm, nhẹ nhàng chơi một bản êm
đềm, thánh thót : ông để tất cả tâm tình
cảm thông vào các phím đàn, ông muốn nhờ đàn
diễn tả tất cả những lời an ủi, mà
lời nói không sao tả được... Tiếng nhạc
khi trầm, khi bổng, êm ái, du dương... Và cứ
thế, người ta thấy bà mẹ dần dần
vơi buồn, bớt khóc than và khô giọt lệ, đôi
mắt bà mẹ nhìn lên trời với tất cả lòng
biết ơn thầm lặng... Rồi nhạc sĩ
đậy nắp đàn, êm ả rút lui, không một
tiếng động, để lại trong nhà một bà
mẹ, tim bừng sáng niềm trông cậy...
ªªªªª
|