BÀI LỜI CHÚA 36
Thương linh hỒn bẢy
mỐi (Phần I)
Trích lược sách tiên tri Yô-na, ch.1
Yavê
truyền cho tiên tri Yô-na rằng :
- Hãy chỗi
dậy, đi sang Ni-ni-vê, kinh thành vĩ đại, mà loan
báo cho chúng hình phạt sắp đổ xuống trên
đầu do các tội lỗi, ác nhân ác đức của
chúng đã lên thấu tai Ta.
Nhưng
Yô-na run sợ, ông nghĩ :
- Dân Ni-ni-vê là
dân đại gian, đại ác, lại là kẻ thù không
đội trời chung của dân tộc mình. Nay mình sang rao
giảng, nhỡ ra họ ăn năn trở lại và
Thiên Chúa thì nhân từ sẽ tha, không giáng phạt cho họ,
thì lời loan báo hình phạt của mình là dởm, thiên
hạ sẽ cười mình chết. Hơn nữa, chúng là
kẻ đại gian, đại ác, cứ để chúng
bị phạt chết tiệt nòi, tiệt chủng đi
là đáng kiếp.
Nghĩ
thế rồi, ông không tuân lệnh Chúa, trốn chạy
nhiệm vụ. Thay vì xuống tàu sang phía đông
đến Ni-ni-vê, ông xuống tàu đi ngược phía tây,
tưởng lánh xa được mặt Chúa. Ai dè, đang
lênh đênh trên mặt biển thì Thiên Chúa làm nổi dậy
phong ba. Tàu muốn vỡ tan vì sóng nhồi, gió táp. Thủy
thủ và mọi người trên tàu khiếp vía, ai nấy
cầu khẩn thần linh của mình. Họ quăng
đồ đoàn xuống biển cho tàu nhẹ bớt,
nhưng nguy hiểm càng lúc càng lớn. Còn Yô-na chui xuống
hầm tàu ngủ li bì. Thuyền trưởng lại
gần đánh thức ông :
- Này ! Dậy đi mà kêu khấn
thần linh của ngươi !
Nhưng
cầu khấn mãi mà nguy hiểm không giảm. Họ
bảo nhau:
- Giữa
chúng ta, chắc có một kẻ tội phạm nào đó
chọc giận thần linh, làm cớ cho các vị thần
đổ tai họa xuống cho ta. Ta hãy bắt thăm
để biết.
Họ
đã gieo thăm. Thăm lại nhằm đúng Yô-na. Yô-na
đành phải xưng :
- Tôi là dân Hip-ri (tức Do thái),
thần linh tôi thờ là Yavê Chúa trên trời. Ngài dựng nên
biển khơi cũng như đất liền.
Nghe
vậy, họ rất đỗi khiếp sợ. Họ
hỏi :
-
Vậy ngươi đã làm gì xúc phạm
đến Ngài ?
Yô-na
thú tội là ông trốn nhiệm vụ Yavê trao. Họ
hỏi bây giờ phải làm thế nào để biển
yên sóng lặng. Yô-na nói :
- Hãy quăng tôi xuống biển,
thì các ông qua khỏi hiểm nghèo. Bởi tôi biết
chính vì tôi đã xúc phạm
đến Yavê, mà cơn bão này xảy đến cho các ông.
Thoạt đầu, họ không dám làm,
họ ra sức chèo chống để vào đất
liền, nhưng vô phương, bão càng thêm hung dữ.
Cuối cùng, họ đành khấn vái Yavê, xin đừng
bắt tội họ vì thí mạng Yô-na, rồi họ
quăng tùm ông xuống biển. (Hình bên cho thấy, các
thủy thủ đang ôm Yôna sắp quăng xuống
biển, và một con kình ngư khổng lồ đang rình
sẵn để nuốt ông). Tức thì, biển trở
lại yên như tờ. Mọi người kính sợ Yavê
và dâng tế lễ kính Ngài.
* Đó
là Lời Chúa ! - Tạ ơn Chúa !
Suy
niệm Lời Chúa
Vì sao Yô-na trốn chạy việc rao giảng cho dân
Ni-ni-vê ? Anh chị em nào đáp thử xem có đúng không ? (,,,,để họ nói...). Bây
giờ, ta thử đọc lại Lời Chúa, ở
mấy dòng đầu có lời giải đáp (xin
đọc lại mấy dòng đầu).
Tóm lại, tiên vàn,
ông sợ mất mặt vì người ta chê
cười. Đi loan báo hình phạt sắp xảy
đến, mà nhỡ ra họ ăn năn trở lại,
thì Thiên Chúa là Đấng giàu lòng ái tuất, kẻ
đại gian, đại ác đến mấy mà thống
hối, ăn năn, Ngài cũng tha thứ và thôi phạt ;
như vậy, hóa ra lời loan báo của ông là láo, loan báo
điều không xảy ra. Thứ
đến, ông không có lòng thương linh hồn
kẻ tội lỗi, mặc kệ cho Chúa phạt chúng
chết đi. Đáng tội !
Biết đâu nhiều người trong chúng ta
cũng là Yôna trốn chạy việc cứu giúp linh
hồn người ta, vì sợ cái này, cái nọ ! Là thành
phần của Hội Thánh truyền giáo, ta mặc kệ
người ta chết mất linh hồn mà chẳng thò
một ngón tay ra cứu vớt sao ?
Trong đời bạn, đã có lần nào giúp một
người khác bỏ đàng tội lỗi trở về
đàng chánh chưa ? Đã một lần nào, bạn
đưa một tâm hồn đến tin vào Chúa, hoặc
đưa một người lương đến
chịu phép Rửa tội chưa ? Nếu đã
được ít ra một lần, thì cũng tốt
lắm rồi, thế là bạn đã cầm chắc
phần rỗi của chính bạn, vì có lời Kinh Thánh
dạy : “Hãy biết rằng :
kẻ làm cho một người tội lỗi trở
lại, bỏ đường lầm lạc, là sẽ
cứu linh hồn mình khỏi chết và phủ lấp muôn
vàn tội lỗi” (Gc 5.20).
Dầu vậy, cứu một linh hồn là quá ít.
Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê bôn ba bốn bể năm châu, sang Ấn
độ, đến Trung quốc, vào Nhật bản,
lặn lội nơi rừng thiêng nước độc,
đến cùng những bộ lạc hung tợn ăn
thịt người... để rao giảng, dạy
đạo, khuyên bảo mọi người hãy tin vào Chúa,
hầu được cứu rỗi ; nên thánh nhân đã
cứu được cả triệu linh hồn
đưa về với Chúa.
Vậy, cái gì là động cơ thúc đẩy lo
phần rỗi cho người khác? Thưa:
Thứ
nhất : lòng yêu thương : “Mến Chúa thì cũng
thương anh em mình. Phàm ai yêu mến Đấng Sinh thành,
tất yêu mến cả những kẻ bởi Ngài mà sinh
ra”, Thánh Kinh dạy vậy (1Ga 4.21 và 5.1). Không chỉ
thương xác như đã xem ở các kỳ
trước, mà còn thương phần linh hồn.
Cứ xem gương Đức Giêsu đủ rõ:
Ngài đã làm những gì để cứu linh hồn nhân loại
? Ở đây, chúng ta không bàn rộng về công việc
cứu độ này, đợi dịp khác, chỉ cần
nhớ một điều : cho dù chỉ có một linh
hồn tội lỗi trên thế gian, Chúa Giêsu cũng
từ bỏ trời xuống thế, rao giảng, hi sinh
chịu chết làm của lễ đền tội cho
người đó. Dụ ngôn người chăn chiên rời
bỏ 99 con trong đàn, để đi tìm một con chiên
lạc bầy, đã cho phép ta nghĩ như thế.
Ngày xưa, Thày Mạnh Tử nói : “Người ta ai
cũng có tính thiện trong người : đó là cái lòng
trắc ẩn. Chứng cớ là đây : giả sử
thình lình thấy đứa bé sắp ngã xuống giếng,
thì ai trông thấy cũng có lòng trắc ẩn, xót
thương mà chạy lại cứu giúp. Xem như
vậy, ai không có lòng trắc ẩn, thương xót, thì
không phải là người” (chương Công Tôn Sửu).
Cũng vậy, linh hồn tội lỗi là một kẻ
sa xuống giếng, đã là con người ai cũng xót
thương mà đến cứu giúp. Há người Kitô
hữu lại không biết xót thương ? Hay là họ
không còn là người nữa ? Hay họ không có trái tim ? Kitô
hữu nào không xót thương linh hồn người ta, không
phải là Kitô hữu thật.
Thứ hai : một lý do nữa thúc
đẩy lo cứu các linh hồn là nhận định xác đáng
về hạnh phúc đời đời. Ta có
một báu vật gì, nếu mất đi, ta tiếc xót,
đau khổ, buồn rầu, mất ăn, mất
ngủ, có khi đến bấn loạn tinh thần, và
nếu còn hi vọng, ta sẽ ra công tìm kiếm không nệ
gian quản khó... Do đó, nếu nhận định xác
đáng hạnh phúc đời đời, cuộc sống
với Chúa, với Đức Mẹ cùng các thần thánh
nơi Thiên đàng, cõi trời mới, đất mới là
cao quí, tốt đẹp và vui sướng vô ngần, nên ta
sẽ cẩn thận không để mất nó, và thấy
ai sắp mất, ta sẽ giúp họ gìn giữ. Vậy xin
hỏi giá trị một linh hồn là bao nhiêu ? Thưa :
cả vũ trụ này cũng không bằng. Đức Giêsu
đã nói : “Nào ích gì cho
người ta khi chiếm được cả thế
gian làm sở hữu mà lại đánh mất sự
sống linh hồn mình ! Người ta sẽ lấy gì
để chuộc lại sự sống linh hồn mình ?”
(Mc 8.36-37).
Đức Mẹ đã hiểu hạnh phúc
đời đời là thế nào : Tuy Đức Mẹ
cũng là con cháu Adong, Evà như ta mọi đàng, song nay thì
Người đang nếm hưởng phúc vô cùng trên
trời với cả hồn lẫn xác. Khi Mẹ thấy
loài người cứ ham mê các vật thế gian tạm
bợ, mau qua, chóng tàn, mà phạm tội mất lòng Chúa,
bỏ mất phần phúc vô cùng lớn lao, cao quí kia, và liều
mình sa xuống hỏa ngục đau đớn, quằn
quại, nghiến răng, khóc lóc đời đời ;
thì Mẹ như cuống cuồng, rối rít lên... Cho nên,
Mẹ hiện ra liên tiếp, nơi nọ nơi kia : nào
Lộ Đức, nào Fatima, bây giờ đang hiện ra tại
Nam Tư (cũ)... để cảnh tỉnh, để
thúc giục để nài nỉ con cái Mẹ hãy ăn
năn trở lại, đừng dại dột chuốc
lấy hỏa ngục đau đớn khủng khiếp...
Và để làm bằng chứng cho những người không
tin hỏa ngục là có thật, thì ở Fatima, Mẹ cho ba
em nhỏ Lu-xi-a, Phnxicô và Giaxinta được thấy
hỏa ngục và các quỉ dữ cùng các linh hồn
trầm luân, đau đớn gào thét trong đó... Mới
đây, hiện ra tại Nam Tư, Đức Mẹ cho các
thanh thiếu niên Mẹ tuyển chọn, được
chứng kiến cảnh thiên đàng, rồi hỏa
ngục...; cách riêng còn cầm tay hai em (Vicka và Jakov) dắt
đi lên tham quan mấy nơi đó !! Sau đó Đức
Mẹ dặn : “Cho các con đi xem tận mắt các nơi
ấy để về kể lại cho người ta
biết Thiên đàng và Hỏa ngục là có thật.”
Theo gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các thánh,
ta không thể sống dửng dưng, mặc anh em ta sa
xuống đó, và tự nhủ mình : “Tôi có phải là
người canh giữ anh em tôi đâu ! Họ sao kệ
họ, tôi không biết!” Chúng ta tạm lấy lời Thánh
Kinh này nói về thân thể mầu nhiệm mà áp dụng
ở đây : “Mắt không
thể bảo tay : Tôi không cần anh ! Hay đầu không
thể bảo chân : Tôi không cần các anh ! Song Thiên Chúa
đã xếp đặt các bộ phận của thân
thể... để các bộ phận vì ích chung mà đùm
bọc nhau. Cho nên, một bộ phận đau thì hết
các bộ phận đều đau chung. Một bộ
phận được vinh, thì hết các bộ phận
đều vinh chung...” (1Cr 12.21-26). Thiên Chúa trao cho mỗi
người phận sự lo lắng phần rỗi và ích
lợi thiêng liêng cho đồng loại, chứ không
chỉ lo cho mình thôi.
Tích
truyện
Trích đoạn ký
sự của ĐGM Anphong Nguyễn Hữu Long, GM Phụ
tá Giáo phận Hưng Hóa :
Tôi
cảm động biết bao, khi đến
được với anh chị em H’Mông trong chuyến
đi khởi hành từ ngày 02-12-2014, vượt 200 cây
số để đặt chân đến bản Huổi
Thủng 1, xã Na Cô Sa lúc 2 giờ chiều. Khi đến
nơi, chúng tôi vui mừng và ngạc nhiên khi thấy rất
đông bà con, khoảng 500-600 người, đã chờ
sẵn, chắc là phải từ trước trưa,
chẳng biết có hạt cơm nào bỏ bụng không. Có
những em bé đi chân không, chẳng mặc quần,
mặt mũi lấm lem ; có những người lớn
gầy còm, đen đúa vì lao động, trong bộ y
phục đặc trưng của người H’Mông. Dù
vậy, trên khuôn mặt mọi người đều
rạng rỡ nụ cười hiền hòa, sung
sướng vì lần đầu tiên được
gặp giám mục của mình. Họ tò mò hỏi nhau : “Giám
mục nó là ai, nó như thế nào ?”
Vì
không có thời gian để giải tội cá nhân, chúng tôi
quyết định giải tội tập thể,
để họ được rước Chúa trong Thánh
Lễ đã khát khao mong đợi từ nhiều năm
nay. Phải dâng lễ ngoài trời…và bạn hãy hình dung
một Thánh Lễ đơn sơ, nhưng đong
đầy linh thiêng giữa trời và đất, giữa
Thiên Chúa cao cả và con người hèn mọn, giữa
lời ca tiếng hát H’Mông-Việt xen lẫn, vút cao phủ
kín khoảng không gian…
Tôi
thực sự xúc động trước lòng thành của
những anh chị em nghèo khó và khốn khổ này [… ].
Tối hôm đó trên đường về… tôi miên man
suy nghĩ : Lúc này ở khắp nơi trên thế giới, người
ta bắt đầu chuẩn bị đón lễ Giáng sinh
với bao hăm hở : nào trang hoàng đèn đóm, làm máng
cỏ thật hoành tráng, gởi thiệp chúc nhau, tặng
nhau những món quà đắt tiền, sắp đặt
những bữa tiệc linh đình… Còn ở đây, nơi
rẻo cao Tây Bắc này, có những con người khốn
khổ, cơm không đủ ăn, áo không đủ
mặc, nhà không đủ ấm để chống
chọi với cái rét cắt da cắt thịt của mùa
Đông, chẳng dám nghĩ đến niềm vui Giáng sinh,
dù chỉ nho nhỏ, như anh chị em ở những
nơi kia, trên cùng một mảnh đất hình cong chữ
S. Họ nào biết đến thiệp mừng, quà
tặng, tiệc tùng, đèn giăng như mắc cửi,
mà chỉ biết đói rét, tối tăm, nhọc nhằn
!
Tôi nghĩ, giá những người đang
được may mắn hưởng niềm vui Giáng sinh
kia, biết dành một ít phút để tưởng nghĩ
và cầu nguyện cho những anh em khốn khổ ở
vùng cao Tây Bắc này, cũng như biết sẵn sàng chia
sớt một chút những món tiền mà họ dự
định sẽ chi tiêu cho mùa lễ năm nay, thì niềm
vui Giáng Sinh hẳn sẽ tràn đầy và ý nghĩa
biết bao !
(Đăng trong Tuần
báo Công giáo & Dân tộc, số 1987-88, ngày 19-12 đến
25-12-2014, trang 58-59)
ššVœœ
|