Thời đại ân sủng –
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Sự
kiện Chúa Giêsu chịu Phép Rửa là gạch nối
giữa giai đoạn quan trọng: sống ẩn dật
và rao giảng công khai. Sau 30 năm sống âm
thầm với gia đình tại Nadarét, Chúa Giêsu bắt
đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Lễ
Chúa Giêsu chịu Phép Rửa cũng là gạch nối
giữa hai mùa: Giáng sinh và Thường niên. Giáo
Hội đã cùng sống với Chúa Giêsu qua các biến
cố Giáng Sinh và Hiển Linh. Hôm nay Chúa
nhật I thường niên, Giáo Hội sẽ cùng
đồng hành với Người qua các biến cố
của đời rao giảng.
Chúa
chịu Phép Rửa tại sông Giođan mở ra một
thời đại ân sủng cho nhân
loại.
1. Sông
Giođan
Trong
các dòng sông nổi tiếng khắp thế giới thì
Giođan bé nhỏ là dòng sông quen thuộc nhất
đối với người Kitô hữu. Dòng
sông ấy gắn liền với những sự kiện
quan trọng của Thánh Kinh.
Như một thân thể của xứ Palestine, sông Giođan góp phần
quan trọng trong lịch sử Israel ngay từ những ngày
đầu Thiên Chúa chọn dân Do thái. Từ Giođan chuyển từ
tiếng Do thái là “hayyarden” có nghĩa “chảy xuôi dòng
thời gian”. Bắt nguồn từ Syria, do ba phụ lưu hợp thành. Sông dài
300km, rất nhiều chỗ cạn, nhiều chỗ
uốn khúc; chảy vào biển hồ Galilê, ở đây
lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển;
rồi tiếp tục chảy xuống miền Nam,
đổ vào Biển Chết, ở đây độ sâu là
394m dưới mức nước biển, có thể nói
đây là điểm thấp nhất của địa
cầu. Lòng sông rất dốc, thượng lưu ở
độ cao 45 mét, đến cửa sông là 390 mét so với
mặt nước biển, lưu vực 93 mét khối/s.
Mặc dù là con sông rộng nhất của Palestine, nhưng
Giođan khác với những con sông của nhiều
nước ở chỗ: khúc sông từ Biển Hồ
Galilê đến Biển Chết có đến 27 ghềnh
thác khó lưu thông, lắm chỗ nước chảy qua
tạo thành những thung lũng như đầm lầy,
nhiều nơi có thú dữ, cây cối hai bên dòng sông mọc
tươi tốt, không có thành phố lớn nào
được thành lập dọc theo dòng sông.
Kinh Thánh nói nhiều đến dòng sông
này. Khởi đầu là
việc liên hệ giữa Abraham và ông Lot
ở sông Giođan (St 13,10). Giacob từ Kharan trở về đã vượt
qua sông Giođan. Các chi tộc vượt sông Giođan
cách kỳ diệu dưới sự hướng dân
của Giosuê (Gs 3,14-17). Con sông là ranh
giới vì dân du mục vượt qua sông vào Cannaan
để cướp bóc. Người Israel tìm nơi nương náu bên kia tản
ngạn sông Giođan (Tl 6,33; 2Sm 17,22) và
được xem như sự che chở: “Trong bụi
rậm sông Giođan...” (Gr 12,5; 49,19;
50,44). Tướng quân Naaman nước Aran nghe lời ngôn
sứ Êlisa xuống sông tắm 7 lần nên được
khỏi bệnh phong hủi (2V 5,1-19).
Ngôn sứ Êdêkiel diễn tả sức sống sung túc
của sông Giođan, nước sông chảy đến
đâu thì trao ban sự sống đến đó (Ed 47).
2. Chúa
Giêsu chịu Phép Rửa
Chính
tại dòng sông Giođan bé nhỏ, Chúa Giêsu đã đến
khai mạc sứ vụ công khai bằng cách đón nhận
phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả.Ngôi Lời Thiên Chúa
từng bước xuống dòng nước ấy, chỗ
thấp nhất không chỉ về địa lý không gian
nhưng còn thấp cả chiều sâu tâm lý và chiều kích
tương quan xã hội.
Nếu
đem so sánh với sông Cửu Long mênh mang thuyền qua
lại thì dòng nước Giođan nơi Gioan làm phép
rửa cho Chúa Giêsu có thể gọi là con kênh nhỏ.
Nếu đặt bên cạnh sông Hồng cuồn cuộn
xiết chảy thì dòng Giođan chỉ là con lạch.
Nếu đứng kề bên sông Hương thơ mộng
lững lờ trôi thì Giođan chỉ là con suối nhỏ.
Đứng bên bờ này sông Giođan ném hòn đá qua bờ kia, nó có thể đi xa hơn.
Thế
mà Chúa Giêsu đã chọn dòng nước bé nhỏ này, không
phải như Môisen hay Giôsua giơ tay cho
dòng nước rẽ đôi, nhưng để dìm mình
xuống dòng nước nhỏ cùng với đoàn
người chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả.
Thiên
Chúa, Đấng cho Cửu long giang tuôn chảy tưới
mát đồng bằng miền Nam; Đấng cho sông
Hồng tuôn nước lũ bồi đắp phù sa cho
đồng bằng miền Bắc; Đấng cho
Hương giang lững lờ lãng mạn gợi hồn
thơ đã chọn dìm mình vào dòng nước Giođan bé
nhỏ.
Thật
lạ lùng, trong số những người đến
“xưng thú tội lỗi” ( Mc 1,5) và
chịu “ phép rửa sám hối để đước
ơn tha tội” (Mc 1,4) lại có Chúa Giêsu. Người
là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt
đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép
rửa sám hối? Người là Đấng mà Gioan
“không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài
” lại có thể đứng chung với đám
đông người tội lỗi chờ đến
lượt mình được chịu thanh tẩy?
Trong
đêm Giáng sinh chúng ta đã chứng kiến một Thiên
Chúa hạ mình xuống làm người, sinh ra nơi hang
đá máng cỏ, làm một người nghèo hèn bé nhỏ,
dường như chưa đủ đối với tình
yêu thương vô biên của Thiên Chúa. Hôm nay,
Người lại hạ mình xuống thêm một bậc
nữa, xuống tận cùng xã hội nhân loại khi
đến xin Gioan làm phép rửa cho mình như một
người dân tầm thường và tội lỗi.
Và đã xuống bậc tận cùng khi Chúa
hạ mình thẳm sâu chấp nhận chết trên thập
giá vì yêu thương nhân loại.
Biết
nói gì về Người bây giờ nếu không phải là
cúi đầu cảm phục và tôn thờ sự khiêm
hạ thẳm sâu đó của Ngôi Hai làm người!
3.
Thời đại ân sủng
Trước
sự hạ mình thẳm sâu của Chúa Giêsu, Chúa Cha đã
tôn vinh Người bằng lời tuyên bố: “Đây là con
Ta yêu dấu” vàsai phái Thánh Thần hiện xuống
dười hình chim bồ câu.
Ba
dấu hiệu mà Phúc Âm nêu lên không những tiên báo sự
sống lại vinh hiển của Đức Kitô mà còn tiên
báo thời đại ân sủng mà
Người mang đến cho loài người.
a.
Dấu hiệu 1: Trời mở ra.
Sách
Sáng Thế viết: Ađam và Evà phạm tội, cửa
thiên đàng đóng lại ( St 3,23-24). Qua
biết bao thế kỷ, Dân Chúa đã thiết tha cầu
nguyện “Ôi ước chi Ngài xé rách các tầng trời và
ngự xuống” ( Is 64,1). Nhờ Chúa
Kitô, từ nay trời mở ra, một kiểu nói của
Thánh Kinh ngụ ý là, con người
từ nay được sống thông hiệp với Thiên
Chúa.
b.
Dấu hiệu 2: Thánh Thần ngự xuống như chim
bồ câu.
Sách
Sáng Thế viết:Trước khi
tạo dựng trời đất, thì “Thánh Thần Thiên
Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,2) như
để thông truyền sức sống. Khi Chúa Giêsu
chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần ngự xuống
dưới hình chim bồ câu với ngụ ý: Chúa Giêsu là con
người mới và trong Người nhân loại sẽ
được tạo dựng lại, sẽ
được đổi mới. Chính Thánh Phaolô xác
định: “ Điều quan trọng
chẳng phải là việc cắt bì hay không cắt bì,
nhưng là trở thành tạo vật mới” (Gal 6,15).
c.
Dấu hiệu 3: Lời của Chúa Cha: “ Con
là con yêu dấu của Ta…”.
Qua lời tuyên bố này, chúng ta nhận
biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Trong lời giảng dạy, Chúa Giêsu cho biết:
những ai tin vào Người và nhận phép rửa nhân danh
Người thì cũng được thông phần vào
địa vị làm con Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu chịu Phép rửa, trong
giờ phút cảm động ấy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa
cùng xuất hiện. Phép rửa của Chúa Giêsu là mặc khải
đầu tiên về Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây
là lần đầu tiên trong Kinh Thánh Ba Ngôi Thiên Chúa
đồng hiện diện. Các Giáo Hội Đông
Phương cử hành phép rửa của Chúa Giêsu như
một ngày Lễ Ba Ngôi; và chính dưới dấu chỉ
Ba Ngôi mà phép rửa Kitô giáo được ban“Nhân danh Cha và
Con và Thánh Thần”.
Chúa Thánh Thần như chim bồ câu
đáp xuống. Chúa Thánh Thần là tình yêu. Chúa
Thánh Thần ngự xuống trên ai là dấu chỉ Thiên
Chúa ưu ái người ấy. Chúa Cha công khai xác
nhận sự ưu ái với Chúa Con: “Đây là Con Ta yêu
dấu”. Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp
thông. Chúa Giêsu hoạt động
dưới tác động của Chúa Thánh Thần
để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có thể
nói cả Ba Ngôi đều hoạt động trong Chúa Giêsu
Kitô. Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công trình cứu
độ con người.
Từ xưa trong Cựu ước,
Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một
sứ mệnh. Hôm nay,
Chúa Giêsu cũng nhận lãnh một sứ mệnh, đó là
cứu độ nhân loại, là “mở mắt cho
người mù”, là “đưa ra khỏi tù những
người bị giam giữ”, là “dẫn ra khỏi
ngục những kẻ ngồi trong bóng tối tăm”.
Chúa Giêsu không đến trong thái
độ phô trương quyền lực, nhưng
đến trong sự hiền lành khiêm nhường. Người đến không phải
để lên án nhưng để tha
thứ. Người đến không phải để
giết chết nhưng để cứu sống như
lời tiên tri Isaia: “Cây lau bị dập, Người không
bẻ gãy. Tim đèn leo lét, Người
chẳng nỡ tắt đi”.
Phép rửa trong nước mà Chúa Giêsu
đón nhận bởi thánh Gioan Tẩy Giả trở nên
phép rửa trong Chúa Thánh Thần, khuôn mẫu và nguyên mẫu
phép rửa Kitô giáo.
Ngày
chúng ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, màn
đêm tội lỗi vây phủ bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa
đến với mỗi người, ban cho chúng ta
cuộc sống thần linh, cho chúng ta được vinh
dự làm con Thiên Chúa, được kết hiệp
mật thiết với Thiên Chúa. Ngày chúng ta được
lãnh nhận bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần cũng
đã trao cho chúng ta một sứ mệnh, đó là sống
xứng đáng một người con hiếu thảo
của Thiên Chúa, là tiếp tục công việc của Chúa
Giêsu trong công trình cứu độ.
Chúa
Giêsu là gương mẫu một người con hiếu
thảo. Người luôn sống thân mật
với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh
nguyện hằng ngày, luôn thi hành thánh ý Chúa Cha. Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến
chết và chết trên thập giá.
Noi
gương Chúa Giêsu, chúng ta luôn kết hiệp với Thiên
Chúa Ba Ngôi, luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một
cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp
phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin dạy chúng con
biết sống ơn Bí tích Rửa Tội để chúng
con được xứng đáng được làm con yêu
dấu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Amen.
|