BÀI LỜI CHÚA 33
Thương
xác bẢy mỐi (Phần IV)
Tin MỪng Thánh Luca 10.30-37
Đức Giêsu nói
dụ ngôn này : “Người kia từ Yêrusalem xuống
Yêricô, và đã sa vào ổ cướp; chúng lột hết áo
xống và đánh nhừ tử người ấy,
đoạn chúng bỏ mặc người ấy nửa
sống nửa chết mà đi mất.
31Tình cờ, một
tư tế nọ cũng xuống theo con đường
ấy, nhưng thấy người kia, ông tránh một bên
mà đi qua. 32Cũng vậy một Lêvit đến
nơi, thấy thế cũng tránh một bên mà đi qua.
33Một
người Samari nọ, nhân đi qua đường,
cũng đến nơi ấy, thấy thế thì
chạnh lòng thương, 34tiến tới lại
mà ràng buộc thương tích người ấy, sau khi
đã đổ dầu và rượu; đoạn
vực người ấy lên lừa của mình mà đưa
đến quán trọ, và săn sóc người ấy.
35Sáng hôm sau, rút hai
quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo: “Ông hãy săn sóc
người ấy, và phải tiêu pha gì thêm, thì chính tôi, vòng
về, tôi sẽ trả ông"
Đức Giêsu hỏi ông luật
sĩ : 36Vậy theo ý ông, thì ai trong ba người
ấy đã nên đồng loại của người sa
vào ổ cướp?" 37Ông ấy đáp:
“Kẻ đã xử nhân nghĩa với người
ấy". Đức Yêsu nói với ông: “Cả ông nữa,
hãy đi và làm như thế!"
* Đó là lời Chúa ! – Lạy
Chúa Kitô, ngợi khen Chúa !
Suy niệm Lời Chúa
Không có tích truyện nào
nói về tình thương người ý nghĩa, sống
động và cảm động như bài dụ ngôn
Đức Giêsu nói trên đây. Nếu có giờ suy gẫm,
chúng ta sẽ lọc được ra hết những ý
nghĩa, song trong khuôn khổ bài giáo lý Kinh Thánh, chúng ta
chỉ có thể nêu ra vài điểm : Đức Giêsu cho
thấy có những người có chức quyền như
tư tế và lêvít lại bỏ qua không giúp người
bị nạn. Có lẽ những vị ấy có lý do
của họ, nhưng xem ra Chúa muốn cho hiểu rằng
: dù thế nào bác ái vẫn là nghĩa vụ quan trọng
hơn hết. Còn điều làm cảm động là
cử chỉ yêu thương tận tình của một
người mà người Do Thái thời đó coi là kẻ
ngoại đạo !
Lãnh nhận tinh thần bài học của Chúa Giêsu,
chúng ta tiếp nối bài trước về thương
người 7 mối, bài hôm nay, ta bàn đến :
Mối thương xác thứ ba :
Cho kẻ rách rưới ăn mặc :
Đi
giữa phố, thấy ai cũng quần là áo lượt,
mốt nọ mốt kia, ta tưởng cảnh rách
rưới, không còn nữa, hay chỉ nơi những
người ăn xin, cố tình vá chằng vá đụp
để gợi lòng thương của khách qua
đường. Thôi, đừng nhìn ngoài phố, hãy nhìn
quanh khu xóm..., ta vẫn còn nghe có kẻ nói : “Chúa Nhật, tôi
không đi dự Lễ vì không có áo !” ; vẫn còn thấy
mùa đông, có người mặc chưa đủ ấm ;
vẫn còn có gia đình không đủ chăn mền
đắp, thiếu mùng màn tránh muỗi cho con nít, cách riêng
để khỏi sốt rét, sốt xuất huyết, v,v...
Nói rộng nữa, vẫn có những người thiếu
nhà, vẫn còn những người chui rúc các ổ
chuột..., sống không ra con người.
Nhìn
vào trong nhà, nếu để ý, ta sẽ thấy có quần
áo, mùng mền... dư thừa, hoặc không dư, song có
khả năng sắm cái mới và cho các đồ cũ.
Hãy gom góp lại một chỗ sẵn, để có thể
cho đi. Không để ý làm như thế, chợt lúc có ai
xin, hay ta định cho, ta sẽ lúng túng và bỏ lỡ
dịp. Có những người quá keo kiệt, không bao
giờ nghĩ rằng có thể cho ai được manh áo
cũ, vì áo quần cũ, họ vẫn cần
để... lau nhà ! Đó là cách xử sự của
những người không có chút tình thương nào trong tim
cả. Lại có nhiều người khác hoàn toàn không cho ai
quần áo cũ, chỉ vì không có thói quen, không ý thức
vấn đề, không để ý...
Dân chúng
đến hỏi ông Gioan Tẩy Giả :
- Chúng tôi phải làm gì, sinh hoa
quả việc lành phúc đức nào để xứng
với lòng hối cải, hòng tránh khỏi cơn thịnh
nộ của phán xét Thiên Chúa ?
Ông Gioan
đáp :
- “Kẻ
có hai áo hãy chia cho người không có, và ai có miếng ăn,
cũng hãy làm như vậy !” (Lc 3.10-11).
Nghĩa
là cách sám hối, đền tội hay nhất là thắng
ích kỷ, chỉ biết lo cho mình no đủ. Quả
thực, như nhà chú giải Kinh Thánh kia nói : “Có việc
đền tội nào tốt hơn sự tự bắt
mình phải bớt chút của cải (ở đây là
bớt quần áo, đồ cũ), mà thường chúng ta
dính bén quá mức ?” (Pirot). Từ xưa, các tiên tri đã
dạy như thế: “Thiên Chúa
phán : ăn chay, đền tội, hãm mình, phạt xác
đâu chỉ là rắc tro trên đầu, mặc áo vải
gai thô nhặm ? Ăn chay, đền tội mà Ta mến
chuộng là thế này : chia sẻ miếng cơm cho
người đói, cho kẻ vô gia cư trú ngụ,
thấy ai mình trần, rách rưới, ngươi cho áo che
thân, ngươi không tránh né giúp đỡ cho đồng bào
ruột thịt ngươi” (Ys 58.5-7).
Trước lòng chai dạ đá của người
có của mà ích kỷ, Thánh Tông đồ Giacôbê nói những
lời hăm dọa nghe mà toát mồ hôi lạnh : “Này ! Những kẻ có của,
hãy khóc đi ! Rú lên vì những khốn khó sắp giáng
xuống trên các ngươi. Của cải các ngươi
tích trữ (không đem ra bố thí), của cải đó
đã ra mục nát. Áo quần các ngươi xếp trong
tủ, trong rương (không chịu phân phát cho kẻ mình
trần), áo quần đó đã để mọt gặm.
Tiền bạc các ngươi cất kỹ trong két sắt
hay chôn giấu dưới đất, tiền bạc
ấy đã bị sét rỉ ! Ấy đó, tất cả
những mục nát, mọt gặm, sét rỉ ấy sẽ
làm chứng tố cáo tội ích kỷ các ngươi, chúng
sẽ ăn thấu xương thịt các ngươi,
bởi vì tích trữ mà không biết chia sẻ, vô hình chung,
các ngươi đã tích trữ lửa hỏa ngục
để thiêu đốt các ngươi trong ngày phán xét” (Gc
5.1-3).
Mối thứ tư : Viếng
kẻ liệt cùng kẻ tù rạc :
Đây là những hạng
người không có phương tiện để tự
mưu sinh. Ốm đau nằm một chỗ, hoặc
bị giam tù, nhất là bị một cách bất công, làm sao
kiếm sống được ? Vậy mối
thương người này bảo ta phải viếng
thăm họ. Không chỉ thăm suông, mà nếu có
phương tiện, thăm và nuôi nữa. Trong những
hoàn cảnh đau buồn ấy, họ rất cô
đơn, cần sự an ủi, nâng đỡ, cả
tinh thần lẫn vật chất. Có thể đem
đến cho họ an ủi của Lời Chúa, của
sách thiêng liêng. Ở nước ta ngày nay, cũng như
ở những nước khác trên thế giới, có
những thanh niên nam nữ, ngay cả thiếu nhi, tình
nguyện hi sinh thời giờ học hành, vui chơi, làm
ăn, kiếm tiền... để đến thăm
viếng các bệnh viện, các trại phong, nhà tế
bần... phục vụ bệnh nhân và đỡ tay cho y tá,
mỗi tháng một lần, vì công việc của họ quá
bề bộn, nặng nề... Biết bao việc có
thể làm, dù nho nhỏ, song cụ thể : gội
đầu, hớt tóc, xếp giường chiếu, rửa
chén bát cho bệnh nhân, viết thư và gửi thư giùm,
nhắn tin, biếu sách báo để giải trí hoặc
để bồi bổ tinh thần, biếu những món quà
nhỏ hoặc thuốc men, vv...
Đối với tù nhân, vấn đề cũng
tương tự, song có phần phức tạp hơn
nhiều. Trong những trường hợp tù oan, hoặc
đang bị cầm giữ đợi ngày xét xử,
nếu có cách giúp để được trả tự
do, thật là quí !
Tích truyện
Trước khi Đức Giêsu xuất hiện, cho dù
thời ấy cũng đã có nhiều tôn giáo, song chẳng
có những tổ chức từ thiện, bác ái, viện
dưỡng lão, tế bần, mồ côi v.v… như bây
giờ ! Người ta để mặc cho những
kẻ xấu số chịu số phận hẩm hiu
của mình… Chỉ từ khi Đức Giêsu đến,
đạo lý yêu thương, bác ái của Ngài đã
biến đổi bộ mặt thế giới !
Trích
đoạn phóng sự của Duy Hòa, trong Tuần báo Công
giáo & Dân tộc, số 1987-88, trang 60-61.
Khu điều
trị Bến Sắn được thành lập
trước năm 1975, do các nữ tu người Pháp, dòng
Nữ tử bác Ái Vinh Sơn mở ra, để chăm sóc
những bệnh nhân phong, không phân biệt lương giáo…
Hôm nay chúng tôi vào thăm và đến chào chị Tổng
Phụ Trách. Đó là một nữ tu nhỏ nhắn trong
màu áo xanh đen, có nụ cười lan tỏa sự thân
thiện…. Dì không giấu cảm giác thật khi vừa
về trại vào năm 1973, rằng “thật cũng
sờ sợ vì bối cảnh giao tranh lúc bấy giờ ác
liệt…Phần nữa, do định kiến xã hội
về bệnh phong ngày đó rất khắt khe… chỉ
cần nghe đến phong là người ta thấy ghê
tởm và tránh xa…Ngay cả người thân trong gia đình
tôi cũng can ngăn, khi cô gái nhỏ của họ vừa
tròn đôi mươi, chập chững dấn thân phục
vụ…”
Phóng viên viết
tiếp : Chúng tôi chỉ thỉnh thoảng mới nghe
kể, hoặc thấy bệnh nhân phong sống lây lất
ở khu chợ, ăn xin trong hình hài lở loét, khiếm
khuyết…, nên không thể nào cảm nhận được
những sự đau đớn về thân xác, khi các ngón
tay và chân co rút lại mà những con người xấu
số ở trại phải chịu đựng. Có
phải chăng chính vì cảm nhận được
khổ đau này mà các dì - dù bị bệnh nhân cáu gắt
lôi cả … 18 đời nhà mình ra mà mắng chửi, khi
họ quẫn trí vì bị bệnh hành hạ - vẫn
đến với họ bằng tất cả tấm lòng
và con tim chia sẻ, bằng sự nhẫn nại và tận
tụy ?
Hai mươi,
ba mươi năm trôi qua hoặc nhiều hơn thế
nữa…, các nữ tu trong trại vẫn âm thầm lắng
nghe tiếng trái tim mách bảo, can đảm hy sinh vượt
qua nỗi sợ hãi thâm căn nơi con người
yếu đuối mỏng giòn… , luôn nghe những tiếng rên rỉ đau
đớn của bệnh nhân, nhẫn nại nghe những
lời chửi mắng lúc họ thấy bức bối
trong thân thể…, để san sẻ vì biết rằng
họ cần mình…
Chúng tôi gặp
bà Tư Đời, một bệnh nhân đã ở trong
trại từ năm 1999, một bên chân đã bị
cắt bỏ, bà kể về chuyện đời bà lúc
phát hiện bệnh đến khi được đưa
vào đây, chuyện thật dài và thậm thượt
tiếng thở ra, nghe như một khúc phim buồn :
“Đối với tui, các dì ở đây giống như
người chị ruột, lo cho tui cái áo, cái quần,
chăm sóc từng vết thương trên thân thể, lúc
tôi ho hen đau ốm lại là từng viên thuốc, ly
sữa…” vừa nói bà vừa rơm rớm nước
mắt, rồi nhắm nghiền lại để giấu
đi nỗi xúc động…
Từ trại
đi về thành phố, trong suy nghĩ miên man, hình ảnh
ở một băng ghế đá dưới tán cây trong
trại, mới diễn ra
trước đó một giờ đồng hồ
chợt tua lại, tôi thoáng thấy một nữ tu hôn lên
trán của một cụ bà có đôi bàn tay co quắp,
mất một chân, ngồi trên xe lăn – một tình yêu
tuyệt vời mà nhiều người, trong đó có tôi,
chưa từng chạm đến.
YVY
|