Đức Giêsu chịu phép rửa
(Chú giải và suy
niệm của Lm PX. Vũ Phan Long)
Giống
như nơi Đức Kitô, mọi cuộc sống Kitô
hữu cũng phải đi qua mầu nhiệm
Vượt Qua. Mọi cuộc sống Kitô hữu cũng
là hạ mình và tôn vinh.
1.- Ngữ cảnh
Do
sự chọn lựa của Phụng Vụ, trong bài Tin
Mừng hôm nay, chúng ta được đọc một
đoạn giới thiệu lời chứng của Gioan
Tẩy Giả và một đoạn nói đến phép
rửa của Đức Giêsu. Câu Lc 3,19 tách đoạn nói
về Gioan Tẩy Giả với đoạn liên hệ
tới Đức Giêsu, để nói về hai thời
đại cứu độ. Gioan đã hoàn tất
nhiệm vụ Tiền Hô. Bây giờ tới lúc Đức
Giêsu thì hành sứ vụ.
2.- Bố cục
Đoạn văn có
hai phần tách biệt:
1) Lời chứng của ông Gioan
Tẩy Giả về Đức Giêsu (3,15-16);
2) Đức Giêsu chịu phép rửa và
cuộcthần hiển (3,21-22).
3.- Vài điểm chú giải
-
Đấng Mêsia (15):
tức là "Đấng được xức
dầu". Ít ra từ đầu thế kỷ II tCN, trong
Do Thái giáo Paléttina, có kết tinh một nỗi niềm
chờ mong Đấng Mêsia. Lời sấm của ngôn
sứ Nathan (2 Sm 7,14-17) và "những lời cuối cùng
của vua Đavít" (2 Sm 23,1-17) tiết lộ lời
Thiên Chúa hứa ban một vương tộc và minh nhiên qui
chiếu về vua Đavít lịch sử như là
"đấng được xức dầu" của
Thiên Chúa Giacóp. Xem Tv 18,51; 89,39.52; 132,10.17.
-
Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến (16): Dịch sát là "Đang
đến Đấng mạnh hơn tôi". Tác giả
Luca nhấn mạnh đến động từ
"đang đến" (HL. erchetai) đặt ở
đầu câu; ngài đã lấy lại Mc 1,7, nhưng bỏ
cụm từ "sau tôi". Đây là một gợi ý
tới bản văn Ml 3,1.23.
- tôi không
đáng cởi quai dép
(16): Hành vi này là nhiệm vụ của một nô lệ.
Tập tục được thực thi như sau:
người chủ đi dự một cuộc tiếp
tân, có một nô lệ đi theo; vào phòng, người
chủ phải cởi dép; khi đó, người nô lệ
quỳ xuống (x. Mc 1,7) để tháo quai dép cho ông (x. Mc và
Lc); và trong suốt cuộc tiếp tân, người nô
lệ phải xách dép của chủ (x. Mt 3,11). Trong
truyền thống kinh sư Do Thái, các kinh sư cấm môn
đệ làm việc này cho thầy mình. Hình ảnh ông Gioan
dùng nêu bật vị trí thấp kém của ông trong quan
hệ với Đức Giêsu, Đấng mạnh hơn.
- phép
rửa trong Thánh Thần và lửa (16): Nước có ý nói về nghi
thức bên ngoài, thực hiện trên thân xác; còn lửa là
biểu tượng diễn tả sự biến
đổi bên trong tâm hồn. Trong khi nước chỉ
đạt tới bề mặt của các sự vật,
thì lửa thấm sâu vào, thanh luyện, soi sáng, đốt
cháy. Trong phép rửa Đấng Mêsia thiết lập,
người ta sẽ không gặp được thứ
lửa nào ngoài thứ lửa của Thánh Thần, bởi
vì chính Người thánh hóa các tâm hồn.
Dựa
theo Mt 3,11, ta phỏng đoán rằng rất có thể ông
Gioan Tẩy giả lịch sử đã không nói đến
phép rửa trong Thánh Thần, nhưng là phép rửa trong
"gió [khí]", như thế để cho từ
"lửa" vẫn giữ được ý nghĩa
"lửa Phán xét" trong suốt bản văn. Sau
đó, các Kitô hữu đã đọc lại và đã
giải thích lại "gió [khí]" như là làn hơi Thánh
Thần: đọc như thế cũng là hợp lý,
bởi vì trong tiếng Híp-ri cũng như tiếng Hy
Lạp, một từ ngữ duy nhất (Hp. ruâh, HL. pneuma)
được dùng để chỉ gió và Thần Khí.
Như vậy, hẳn là ông Gioan Tẩy Giả đã nói
đến một phép rửa "trong gió [khí] và
lửa" Phán xét, nhưng chẳng bao lâu (có khi là ngay lúc
còn đang truyền khẩu), các Kitô hữu đã hiểu
các lời này như loan báo một phép rửa "trong
[Thánh] Khí hoặc Thánh Thần và lửa" của Lễ
Ngũ Tuần.
Cũng
cần nói rằng không nên giới hạn tầm mức
lời ông Gioan nói vào phép rửa mà thôi. Cần phải
thấy đó là mọi cuộc thông ban Thánh Thần do
Đức Giêsu thực hiện, hoặc bằng phép
rửa Kitô giáo, hoặc bằng bí tích thêm sức, hoặc
bằng cách nào khác: Lc 12,49 (Đức Giêsu ném lửa
xuống thế gian); Cv 1,4-5 (điều Chúa Cha đã
hứa); 2,1-4 (lưỡi lửa).
Nhưng
cũng vẫn có nghĩa là lửa Phán xét. Chúng ta bị
đặt giữa hai ngọn lửa: lửa Thánh Thần
và lửa của cơn giận không tắt. Bởi vì
Đấng Mêsia sẽ là Thẩm Phán (x. cc. 17-18).
- đang
khi Đức Giêsu cầu nguyện (21): Đối với tác giả Luca,
việc cầu nguyện lấp đầy cuộc
đời Đức Giêsu (5,16; 6,12; 9,18.28-29; 11,1;
22,32-41.44), nên vào lúc đặc biệt này, Người
cầu nguyện là việc tự nhiên. Nhưng tác giả
TM ghi nhận như thế còn là để nói về
mục tiêu của việc cầu nguyện (Lời cầu
nguyện của người Kitô hữu chủ yếu
hệ tại việc cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần [x.
11,13]), và nói về liên hệ giữa cầu nguyện trong
cộng đoàn và ơn Thánh Thần (x. Cv 4,31).
- trời
mở ra (21):
Người ta chờ đợi vào thời cuối cùng,
trời mở ra, vì lâu nay vẫn đóng lại (Is 64,1).
Đức Giêsu là nơi Thiên Chúa hiện diện trên
mặt đất, là Bết-Ên ("Nhà Chúa") của giao
ước mới (Ga 1,51; x. St 28,17).
- Thánh
Thần ngự xuống
(22): Đức Giêsu có Thần Khí bởi vì Người
đã được cưu mang bởi Thần Khí (1,35)
Người sẽ nhận Thần Khí tứ Chúa Cha khi
đã được nâng lên bên hữu Cha (Cv 2,33), và bây
giờ Người đang nhận Thần Khí. Không
phải là Thần Khí chỉ được ban cho
Đức Giêsu theo mức độ tiệm tiến,
nhưng vào những giờ phút quan trọng trong cuộc
đời Người, ta lại thấy Người có
Thần Khí một cách mới. Chính Thiên Chúa quyết
định về sự biểu lộ này.
Dựa vào truyền
thống của cộng đoàn tiên khởi, tác giả Luca
coi biến cố Thánh Thần đến trên Đức
Giêsu vào dịp Người nhận phép rửa như là
việc "xức dầu", việc Người
được tấn phong làm "Đấng
được xức dầu" (Cv 10,37-38; Lc 4,18; x. Is
61,1). Lời nói từ trời xác minh điều này, khi
trích Tv 2 mà áp dụng cho Đức Giêsu.
- Con là Con
của Cha; ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con (22): Đây là c. 7 của Tv 2. Bài này là
một Thánh vịnh vương giả được khoa
chú giải Do Thái giải thích như là một Thánh vịnh
về Đấng Mêsia. Khi áp dụng c. 7 vào phép rửa
của Đức Giêsu, đặc điểm vương
giả bị mờ nhạt đi; nhưng đây đúng
là một lễ tấn phong (ký thác và thừa nhận vào
một nhiệm vụ cao cả do Thiên Chúa ủy nhiệm)
và là một lễ tấn phong thiên sai (theo một nghĩa
khá tổng quát: sứ mạng cứu thế).
4.-Ý nghĩa của bản văn
* Lời
chứng của ông Gioan Tẩy Giả về Đức
Giêsu (15-16)
Theo
lời chứng của vị Tẩy Giả, Đức
Giêsu không những là "Đấng đang
đến", mà còn là "Đấng mạnh
hơn"; Người như là một nhà cải cách
đầy lửa, tương tự ngôn sứ Êlia. Gioan
đã so sánh phẩm giá hai nhân vật mà dân chúng có thể lầm:
bản thân ông và Đức Giêsu. Ông còn bất xứng
hơn một tên nô lệ trong việc phục vụ
chủ. Giữa phép rửa ông thực hiện và phép
rửa của Đức Giêsu cũng thế: phép rửa
của ông chỉ là một phép rửa trong nước, là
một nghi thức tượng trưng để giúp
diễn tả các tâm tình thống hối; còn phép rửa
của Đấng Mêsia là một cuộc tuôn đổ
Thánh Thần, có khi chẳng cần rửa bằng
nước; và ngay khi nghi thức bên ngoài là một việc
rửa bằng nước (phép rửa Kitô giáo), thì cũng
vẫn là bên trong tâm hồn mà Thánh Thần đi sâu vào
như lửa.
*
Đức Giêsu chịu phép rửa và cuộc thần
hiển (21-22)
Tác
giả Lc không nói ai đã ban phép rửa cho Đức Giêsu.
Đứng về phương diện văn chương,
ngài có thói quen kể xong một truyện rồi mới sang
truyện khác: ở cc. 19-20, ngài kết thúc truyện về
Gioan Tẩy Giả bằng thông tin là ông này đã bị
tiểu vương Hêrôđê bỏ tù. Do đó, khi nói
đến phép rửa của Đức Giêsu, tác giả
đành im lặng về người ban phép rửa (Không
lẽ Gioan ra khỏi nhà tù để ban phép rửa rồi
vào tù lại?!). Tuy nhiên, chính bản văn cũng cho
thấy là ngài không quan tâm nhiều đến điểm
này: ở c. 21, ngài chỉ nhắc đến phép rửa
của Đức Giêsu trong một mệnh đề
chỉ thời gian mà thôi, có vẻ như đồng hóa
sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa vào sự
kiện toàn dân chịu phép rửa. Dù sao, Đức Giêsu
đã chịu phép rửa: vậy sứ mạng của
vị Tiền Hô đã kết thúc. Chắc chắn tác
giả ý thức về tình liên đới của
Đức Giêsu đối với những người
tội lỗi hoán cải; nhưng ngài không triển khai ý
tưởng này. Ngài hoàn toàn chú ý đến ân ban Thánh
Thần, và đặt biến cố này ở trung tâm bài
tường thuật. Ngài không mô tả phép rửa, nhưng
mô tả cuộc thần hiển. Ngài nhấn mạnh trên
tính hiện thực bên ngoài của việc Thần Khí
ngự đến: thay vì nói "Thánh Thần, như chim
bồ câu", ngài nhấn mạnh: "Thánh Thần,
dưới hình dáng như chim bồ câu". Quả
thật, ngài giữ lại nhiều chi tiết thuộc
truyền thống: trời mở ra, Thánh Thần ngự
xuống, tiếng nói từ trời. Nhưng chỉ
một mình ngài ghi rằng sự can thiệp của Chúa Cha
là để trả lời cho lời cầu nguyện
của Đức Giêsu.
"Con
là Con của Cha; ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con". Lời tuyên
bố này đi trước một quãng thời gian quan
trọng trong hoạt động, sứ vụ tại
Galilê, của Đức Giêsu, như được trình bày
trong TM Lc. Và lời tuyên bố ở 9,35 đi trước
bài tường thuật về cuộc hành trình lên Giêrusalem.
Trong cả hai cảnh, lời xác nhận từ trời nêu
bật quan hệ của Đức Giêsu với Cha
Người, mỗi khi bắt đầu một giai
đoạn trong hoạt động trần thế của
Người.
+ Kết luận
Được
đầy sức mạnh Thánh Thần, được
chuẩn nhận trong ý thức về Người là Con yêu
dấu của Thiên Chúa, luôn hiệp thông đặc biệt
Cha, Đức Giêsu vĩnh viễn lãnh nhận sứ
mạng bắt tay vào công trình cứu độ, đùng theo
chương trình của Thiên Chúa đã được phác
ra trong Kinh Thánh.
Được
tác giả Lc kể lại ngay tại ngưỡng cửa
của sứ vụ công khai của Đấng Cứu
Thế, bài tường thuật này cho thấy kể
từ nay, phải hiểu cuộc sống công khai của
Đức Kitô dưới ánh sáng này. Với biến cố
Thánh Thần được ban xuống, Con Thiên Chúa
bước vào cuộc đời nhân loại, ta thấy
thời đại cánh chung đã bắt đầu,
Nước Trời đã được khai mạc.
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Một ngày nào đó, Đức Giêsu "sẽ ban phép
rửa trong Thánh Thần và lửa". Nhưng trong khi
chờ đời, Người phải hạ mình xuống
nhận phép rửa bằng nước của ông Gioan
Tẩy Giả. Mọi cuộc sống Kitô hữu cũng
phải đi qua mầu nhiệm Vượt Qua. Mọi
cuộc sống Kitô hữu cũng là hạ mình và tôn vinh.
Hạ mình qua việc vui tươi yêu thương chấp
nhận phục vụ kẻ khác. Hạ mình trong tình
trạng vô danh và nhàm chán của cuộc sống
thường nhật theo gương Đức Giêsu
sống tại Nadarét. Hạ mình trong cuộc chiến
đấu bền bỉ chống lại tính ích kỷ
tự nhiên, những khuynh hướng muốn thống
trị anh chị em, ước muốn tiện nghi và xa hoa
để sống lười biếng và huênh hoang.
2.
Nếu chúng ta sống trung thành nếp sống con cái, ngày
nào đó chúng ta sẽ được nghe Chúa Cha tuyên
bố: "Con là con của Cha". Rồi Ngài sẽ
đưa chúng ta vào trong cuộc sống vinh quang thâm sâu
của Ngài; còn trong lúc này, Ngài sẽ ban niềm an ủi,
ánh sáng, đủ mọi thứ ân huệ cho chúng ta.
3.
Vào lúc Đức Giêsu chịu phép rửa, trời đã
mở ra: giữa con người và Thiên Chúa, lại có
thể có quan hệ thân tình. Cái hàng rào giữa Thiên Chúa và
chúng ta, đã được dựng lên do tọi lỗi
của loài người, này được vĩnh viễn
hủy bỏ, bởi vì bây giờ có một người
đang thường xuyên diện đối diện
với Thiên Chúa. Trời đã đóng lại vì tội
lỗi, nay lại mở ra để Thần Khí đi
xuống trên một con người có khả năng đón
nhận Ngài trọn vẹn. Kể từ nay, qua con
người tên là Giêsu này, mọi người lại đi
tới được với Chúa Cha.
4.
Chính là trong khi cầu nguyện mà Đức Giêsu nhận
được lời chứng của Chúa Cha và sự
tỏ hiện của Thánh Thần. Đối với chúng
ta cũng vậy, cầu nguyện là khoảnh khắc
ưu tuyển để gặp được Chúa Cha và
nhận được dồi dào hơn nữa các ân
huệ của Thánh Thần.
|