Gặp gỡ: Thành sự tại nhân
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn
Nghĩa)
Gặp gỡ là cùng có mặt tại một
không gian, là sự giáp mặt, tiếp xúc giữa những
người thân quen hay cùng có một mối liên hệ nào
đó. Vào Chúa Nhật IV Mùa Vọng C này giáo hội khi
dọn cho chúng ta bàn tiệc Lời Chúa, đặc biệt
qua bài Tin mừng, muốn giới thiệu hai cuộc
gặp gỡ. Một là giữa hai chị em Isave và Maria và
hai là giữa Thai Nhi Giêsu với bà Isave và Thai nhi Gioan Tẩy
giả. Đã nói đến sự gặp gỡ thì hàm ý có
những hiệu quả tốt đẹp phát sinh. Qua
cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ cũng như hai
thai nhi trên, hiệu quả tốt đẹp đã xảy
ra. Bà Isave đầy ân sủng Thánh Thần, xác nhận
sự diễm phúc của cô em Maria cũng như nói lên
hồng ân mà trẻ bé Gioan Baotixita trong dạ của bà
đang hưởng nhận. Chúng ta đừng quên cuộc
gặp gỡ ấy cũng đem niềm vui cho cả nhà
Giacaria, vì nay đã có người góp sức cho việc
hạ sinh trẻ Gioan. Điều này được hé
lộ khi Tin mừng tường thuật rằng Maria
ở lại với gia đình Giacaria – Isave độ ba
tháng mới trở về nhà mình (Lc 1,56).
“Hữu duyên thiên lý năng tương
ngộ. Vô duyên đối diện bất tương phùng”.
Câu đối của người xưa nhấn mạnh
đến cái duyên, tức là phần số đã
được trời sắp đặt, chuẩn bị,
an bài từ trước, như là nguyên nhân chính làm nên
sự gặp gỡ hay không gặp gỡ. Theo viễn
kiến này, thì người ta cũng có thể nói như người
xưa: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”
hoặc như tác giả Thánh Vịnh: “Ví như Chúa
chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là
uổng công” (Tv 126,1). Thế nhưng dưới cái nhìn
của mạc khải thời Tân Ước, thì phải
chăng chúng ta cũng có thể nói ngược lại:
Mưu sự tại thiên, thành sự tại nhân.
Mưu sự tại thiên: Thiên Chúa đã yêu
thương, chọn gọi loài người từ ngàn
xưa để ban cho con người hạnh phúc vĩnh
cửu là thông phần sự sống với Người
trong Con Một của Người là Đức Kitô. Thánh
Phaolô đã trình bày ý định nhệm mầu này bằng
bản thánh ca: “…Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn
ta trước khi tạo thành vũ trụ, để
trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền
thánh thiện, nhờ tình thương của Người.
Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người
đã tiền định cho ta làm nghĩa tử, nhờ
Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân
sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng
cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu
Thánh Tử đổ ra, chúng ta được cứu
chuộc, được thứ tha tội lỗi, theo
lượng ân sủng rất phong phú của
Người…”(Eph 1,3-14).
Thánh ý của Thiên Chúa là ban cho thế gian chính
Con Một dấu yêu, trong một thân xác cụ thể, làm
dấu chỉ và làm phương thế cho sự gặp
gỡ giữa Thiên Chúa với con người. Tác giả
thư gửi tín hữu Do Thái đã nói: “Khi vào trần gian,
Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến
tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa
cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội.
Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này
đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách
Thánh đã chép về con” (Dt 10,5-7).
Khi ban Người Con Một vào trần gian,
Thiên Chúa muốn mạc khải cho biết nguồn gốc
đích thực của mọi loài, cách riêng loài người
chúng ta chính là Người, vị Thiên Chúa duy nhất đầy
quyền năng đáng tôn thờ và cũng là người
Cha đầy lòng thương xót đáng mến yêu trên
hết mọi sự, đồng thời qua đó, mạc
khải cho chúng ta biết mình là anh chị em với nhau,
bất phân màu da, sắc tộc, ngôn ngữ…(x.Mt 5,9;
43-48). Nói một cách không sợ sai lầm rằng chúng ta
đã biết một trong những nội hàm của
“mưu sự tại thiên”: Đó là Thiên Chúa muốn mọi
người gặp gỡ Người để
được hạnh phúc và gặp gỡ nhau để
sống tình huynh đệ.
Thành sự tại nhân: Chúng ta vốn quen
với câu nói của thánh giáo phụ Âugustinô: “Thiên Chúa
dựng nên tôi không cần có tôi, nhưng Người không
thể cứu tôi mà không cần có tôi”. Thánh giáo phụ vừa
nói lên quyền năng cao cả của Thiên Chúa, vừa nói
lên đường lối của Người, Đấng
là Tình Yêu (x.1Ga 4,8). Thiên Chúa đã thương ban cho loài
người, hình ảnh của Người, có lý trí và ý chí
tự do. Đây là hệ lụy tất yêu của tình yêu.
Tình yêu đòi hỏi có sự ý thức và tự nguyện.
Có thể dễ bị hiểu lầm là kiêu ngạo khi
đề cao vai trò của nhân loại, thế nhưng
đó là một cách thế hành động của Thiên Chúa.
Dù rằng đầy quyền năng và không có sự gì là
không thể, nhưng Thiên Chúa lại muốn có sự
tự do cộng tác của con người trong việc thi
ân, cứu độ con người.
Để chuẩn bị một dân tuyển
lựa, Thiên Chúa không bắt ép, nhưng mời gọi
Abraham, một người chăn nuôi súc vật đã khá
cao niên lên đường (x. St 12,1-5). Để cho Ngôi
Lời Nhập thể cứu đời, Thiên Chúa không ra
chỉ thị mà lại ngỏ ý, đề nghị Maria,
một thiếu nữ thôn dã cộng tác (x. Lc 1,26-38). Khi công
khai rao giảng tin mừng Chúa Giêsu thường lặp
đi lặp lại câu nói: “Ai có tai để nghe thì hãy
nghe!” (Mt 11,15).
Điều gì cần có nơi phía loài
người để thánh ý Thiên Chúa được thành
sự? Chúng ta có thể nhận ra đó là lòng thành và sự
khiêm nhu trong một tâm hồn đầy lửa mến,
khát khao sự thiện. Để cho thánh ý Thiên Chúa
được thành hiện thực, nghĩa là có sự
gặp gỡ thực sự giữa Thiên Chúa với con
người, giữa con người với nhau, thì phía con
người không thể thiếu:
- Một sự hướng thiện trong tình mến:
Biết bao cuộc họp mặt giữa người
với người, giữa vị đại diện
quốc gia này với quốc gia kia mà vẫn chưa
trở thành sự gặp gỡ, nghĩa là chưa mang
lại kết quả. Trong nhiều lý do rất có thể
có lý do là một trong hai phía chưa thực sự có tình yêu
thương nhau hoặc chưa thực sự hướng
thiện, nghĩa là tìm kiếm điều tốt trong chân
lý.
- Một tấm lòng thành đầy sự khiêm nhu:
Khi sinh thời, cách riêng trong quảng đời rao
giảng công khai, Chúa Giêsu đã tiếp xúc rất nhiều
người nhưng vẫn có đó không ít người
chưa gặp gỡ Người mà trong số đó có
nhiều người biệt phái, luật sĩ. Lý do chính
yếu mà tin mừng tường thuật, đó là vì
họ thiếu lòng thành và sự khiêm hạ. Họ là
những người có tai mà không nghe, đúng hơn là không
thèm nghe; có mắt mà không thấy, đúng hơn là không
muốn thấy. Làm sao có sự gặp gỡ khi một
phía cố tình bịt tai, che mắt?
Trở lại với hai bà mẹ đang mang
thai, một trẻ, một già là Isave và Maria. Tình yêu của
của hai bà mẹ dành cho Thiên Chúa, cho con người đã
quá rõ. Một người tuy như là bất hạnh
trước người đời vì son sẻ mà vẫn
kiên trung trong sự công chính trước mặt Thiên Chúa và
không ai chê trách được điều gì (x.Lc 1,6),
một người thì tràn trề ân sủng (x.Lc 1,28), và
cả hai đều đầy ơn Thánh Thần (x.Lc 1,35;
41). Lòng thành và sự khiêm hạ của Maria đã rõ nét qua
lời thưa xin vâng và lời ca Magnificat: “Chúa đã
đoái thương phận hèn tớ nữ…”(x.Lc
1,48). Bà Isave đã nhìn nhận tất cả là ơn Chúa “khi
Người đã thương cất nỗi hổ
nhục bà phải chịu trước mặt người
đời” (Lc 1,25).
Thiên Chúa không chỉ muốn mà còn tìm mọi
cách để gặp gỡ con người, đồng
thời giúp con người gặp gỡ nhau. Thế
nhưng trong vấn đề này, chúng ta có thể nói
rằng “mưu sự tại thiên mà thành sự tại nhân”
vậy.
|