Hãy sinh những hoa quả hối cải
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ
Phan Long)
Sự hoán cải chân thật không bao giờ chỉ
dừng lại với những tâm tình tốt đẹp,
nhưng phải được diễn tả ra bằng
một cuộc sống tương hợp cụ thể
với giáo huấn của Đức Kitô.
1.- Ngữ
cảnh
Tác giả Luca
đưa Đức Giêsu đi vào lịch sử
dưới dấu chỉ là hoàn cảnh chính trị và tôn
giáo của đế quốc Rôma và của Israel.
Qua cái cổng này, ngài lấy lại cái chặng của Tin
Mừng Máccô: Gioan Tẩy Giả (3,1-20), phép Rửa và
việc Thánh Thần ngự xuống (3,21-22), Cám dỗ
(4,1-13). Giữa phép Rửa và Cám dỗ, ngài ghép gia phả
của Đức Giêsu vào (3,23-28).
Bản văn
đọc hôm nay là trích phần đầu của phần
2 của Tin Mừng Lc.
2.- Bố
cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Gioan
bảo dân chúng những việc phải làm (3,10-14);
2) Ông loan
báo Đấng mạnh hơn đang đến (3,15-17);
3) Tóm
kết sứ vụ Gioan (3,18).
Nếu muốn đầy đủ cho
phần rao giảng của Gioan, thì lấy từ câu 7. Chúng
tôi sẽ trình bày khởi đi từ c. 7 này.
3.- Vài
điểm chú giải
- Đấng Mêsia (15): tức là “Đấng
được xức dầu”. Ít ra từ đầu
thế kỷ ii trước CN, trong Do Thái giáo Paléttina,
đã kết tinh một nỗi niềm chờ mong
Đấng Mêsia. Lời sấm của ngôn sứ Nathan (2 Sm
7,14-17) và “những lời cuối cùng của vua Đavít” (2
Sm 23,1-17) tiết lộ lời Thiên Chúa hứa ban một
vương tộc và minh nhiên qui chiếu về vua Đavít
lịch sử như là “đấng được xức
dầu” của Thiên Chúa Giacóp. Xem Tv 18,51; 89,39.52; 132,10.17.
- Đấng mạnh thế hơn tôi đang
đến (16): Dịch sát là “Đang đến
Đấng mạnh hơn tôi”. Luca nhấn mạnh
đến động từ “đang đến” (HL.
erchetai) đặt ở đầu câu; ngài đã lấy
lại Mc 1,7, nhưng bỏ cụm từ “sau tôi”. Đây là
một gợi ý tới bản văn Ml 3,1.23.
- tôi không đáng cởi quai dép (16): Hành vi này là
nhiệm vụ của một nô lệ. Tập tục
được thực thi như sau: người chủ
đi dự một cuộc tiếp tân, có một nô lệ
đi theo; vào phòng, người chủ phải cởi dép;
khi đó, người nô lệ quì xuống (x. Mc 1,7)
để tháo quai dép cho ông (x. Mc và Lc); và trong suốt
cuộc tiếp tân, người nô lệ phải xách dép
của chủ (x. Mt 3,11). Trong truyền thống kinh sư
Do Thái, các kinh sư cấm môn đệ làm việc này cho
thầy mình. Hình ảnh Gioan dùng nêu bật vị trí
thấp kém của ông trong quan hệ với Đức Giêsu,
Đấng mạnh hơn.
- phép rửa trong Thánh Thần và lửa (16):
Nước có ý nói về nghi thức bên ngoài, thực
hiện trên thân xác; còn lửa là biểu tượng
diễn tả sự biến đổi bên trong tâm hồn.
Trong khi nước chỉ đạt tới bề mặt
của các sự vật, thì lửa thấm sâu vào, thanh
luyện, soi sáng, đốt cháy. Trong phép rửa
Đấng Mêsia thiết lập, người ta sẽ không
gặp được thứ lửa nào ngoài thứ
lửa của Thánh Thần, bởi vì chính Ngài thánh hóa các tâm
hồn.
Dựa theo Mt 3,11, ta phỏng đoán rằng
rất có thể Gioan Tẩy giả lịch sử đã không
nói đến phép rửa trong Thánh Thần, nhưng là phép
rửa trong “gió [khí]”, như thế để cho từ
“lửa” vẫn giữ được ý nghĩa “lửa
Phán xét” trong suốt bản văn. Sau đó, các Kitô hữu
đã đọc lại và đã giải thích lại “gió
[khí]” như là làn hơi Thánh Thần: đọc như
thế cũng là hợp lý, bởi vì trong tiếng Híp-ri
cũng như tiếng Hy Lạp, một từ ngữ duy
nhất (Hp. ruâh, HL. pneuma) được dùng để
chỉ gió và Thần Khí. Như vậy, hẳn là Gioan
Tẩy Giả đã nói đến một phép rửa “trong
gió [khí] và lửa” Phán xét, nhưng chẳng bao lâu (có khi là
ngay lúc còn đang truyền khẩu), các Kitô hữu đã
hiểu các lời này như loan báo một phép rửa “trong
[Thần] Khí hoặc Thánh Thần và lửa” của Lễ
Ngũ Tuần.
Cũng cần nói rằng không nên giới
hạn tầm mức lời Gioan nói vào phép rửa mà thôi.
Cần phải thấy đó là mọi cuộc thông ban Thánh
Thần do Đức Giêsu thực hiện, hoặc bằng
phép rửa Kitô giáo, hoặc bằng bí tích thêm sức,
hoặc bằng cách nào khác: Lc 12,49 (Đức Giêsu ném
lửa xuống thế gian); Cv 1,4-5 (điều Chúa Cha
đã hứa); 2,1-4 (lưỡi lửa).
Nhưng cũng vẫn có nghĩa là lửa
Phán xét. Chúng ta bị đặt giữa hai ngọn lửa:
lửa Thánh Thần và lửa của cơn giận không
tắt. Bởi vì Đấng Mêsia sẽ là Thẩm Phán (x.
cc. 17-18).
- Tay Người cầm nia rê sạch lúa (17):
Cái rê (ptyon, winnowing-shovel) là một dụng cụ giống
cái xẻng, người ta dùng để rê lúa (“làm sạch
thóc bằng cách đổ thóc từ trên cao rơi từ
từ theo hướng gió để bụi và hạt lép bay
ra hết”, Đại từ điển tiếng Việt),
còn thóc thì rơi xuống thành đống (x. Is 30,24). Hình
ảnh này được dùng để chỉ việc
Đấng quyền thế hơn phân loại loài
người theo giá trị của họ.
- thóc mẩy thì thu vào kho lẫm (17):
Đống thóc tượng trưng những người
sẽ được cứu bởi vị thẩm phán
đang đến. Công việc phân loại của
Người được diễn tả bởi hai hành
động, “rê sạch” và “thu vào kho”.
4.- Ý nghĩa
của bản văn
Gioan đến như nhà rao giảng sự
thống hối và như sứ giả niềm vui. Ông ra
sức giải thích cho dân chúng biết rằng sự hoán
cải cần được cụ thể hóa bằng
những hoa trái xứng đáng (3,7-9). Và ông dạy họ
những việc cụ thể phải làm cũng như
về Đấng đang đến. Ông giới thiệu
hoàn cảnh trong tính nghiêm túc và trong đặc điểm
cứu độ, ông không giấu giếm gì cả.
Nguyện vọng duy nhất của ông là chuẩn bị
cho dân đón nhận ơn cứu độ, ơn này
đang hiện diện nơi Đức Giêsu Kitô.
Các hoa trái hối cải tuyệt đối
cần thiết, ta không thể loại trừ hay trì hoãn.
Với những lời lẽ hết sức mạnh
mẽ, Gioan ngỏ lời với những người
muốn hoán cải. Họ đến với ông bởi vì
họ coi trọng lời ông loan báo và muốn nhận phép
rửa. Gioan bảo họ rằng chỉ có ý muốn mà
thôi thì không đủ; còn cần phải có hoa trái nữa,
tức là những hành động. Thiên Chúa muốn có
những hành động này. Ai không làm những hành
động này, thì sẽ phải gánh lấy cơn
thịnh nộ của Ngài (3,7), tức là hậu quả
của một chọn lựa đi ngược lại ý
Ngài muốn. Phải có một sự hoán cải thực
thụ. Dĩ nhiên phải hoán cải con tim, bằng cách
hoàn toàn quay hướng về Thiên Chúa. Nhưng sự hoán
cải không chỉ dừng lại ở bình diện
nội tâm, thiêng liêng. Nó phải được diễn
tả ra trong lối xử sự bên ngoài. Người ta
không thể tránh né lối sống bên ngoài bằng cách
nại đến các duyên cớ nào đó. Nại
đến tư cách con cháu tổ phụ Abraham cũng không
ích gì. chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng nên cũng phải
luôn tìm cách sinh những hoa quà xứng với lòng hối
cải.
* Gioan bảo dân chúng những việc phải làm
(10-14)
Những người được Gioan
ngỏ lời với không chỉ muốn nghe nói về cáh
hoa quả cách chung chung; họ muốn biết cụ
thể họ phải làm gì. Gioan không mời họ thực
hành một việc đạo đức hình thức hay
tham dự một nghi lễ thống hối nào; ông yêu
cầu họ làm một việc cụ thể và triệt để
nào đó. Ông trả lời họ không quanh co. Mọi hoa
trái hối cải ông đề nghị đều liên
hệ đến cách xử sự với người
đồng loại. Sự hoán cải, nghĩa là việc
quay về với Thiên Chúa, phải được diển
tả ra thực sự qua cách thức xử sự với
anh chị em mình. Sự hoán cải đòi hỏi sự chia
sẻ huynh đệ và từ khước mọi thứ
bất công. “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì
ăn, thì cũng làm như vậy” (3,11). Lời yêu cầu
này được đề nghị không những cho
tất cả những ai đang sống trong sự sung túc,
để họ sớt bớt phần dư thừa,
nhưng còn được gửi đến tất cả
những ai có thứ gì hơn mức thực sự cần
thiết. Ngay người chỉ có hai áo cũng phải cho
một cái và bằng lòng chỉ còn một cái, nếu
người thân cận không có cái nào. Đứng
trước nhu cầu của người khác,
người ta chỉ được giữ lại
điều gì mình cần mà thôi.
Người thu thuế và lính tráng cũng
đến với Gioan. Đây là hai hạng người
bị khinh bỉ và căm ghét, bởi vì họ
thường lợi dụng địa vị mà thủ
lợi. Gioan không mời họ bỏ nghề, nhưng kêu
gọi họ loại trừ những hình thức xử
sự bất công khi hành nghề. Người thu thuế có
thể lợi dụng địa vị để đòi
mức thuế cao hơn mức đã quy định
để làm giàu. Những người lính có thể dùng
vũ lực để ép người khác làm theo ý mình,
để gia tăng đồng lương. Trong cả hai
trường hợp, vấn đề là áp bức
người khác để có thêm tiền bạc. Hoán
cải, quay về với Thiên Chúa, không phải là chuyện
thực hiện trong trừu tượng, nhưng phải
được thể hiện ngay trong lãnh vực nghề
nghiệp.
Sau này, Đức Giêsu còn yêu cầu mạnh
hơn nữa: “Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má
bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng
đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6,29).
* Ông loan báo Đấng mạnh hơn đang
đến (15-17)
Một yếu tố tiêu biểu của
sự cao cả của Gioan là đánh giá đúng đắn
vị trí của ông. Ông đến theo bài sai của Thiên
Chúa và ông hành động hết sức cương
quyết. Do đó, ông đã gợi lên nới dân chúng ấn
tượng là ông chính là Đấng Cứu thế thời
cuối cùng, Đấng Mêsia. Ông tuyên bố rằng ông
chỉ là người dọn đường, và dứt
khoát hướng người ta đến Đấng
đến sau ông. Ngài cao cả hơn ông vô cùng, không sao sánh
ví được. Tương quan giữa ông và Đấng
ấy không thể mô tả cách nào cho xứng hợp, cho dù
là bằng hình ảnh “nô lệ-chủ nhân”. Gioan không
xứng đáng làm một việc phục vụ thấp
hèn nhất cho Đấng đang đến. Bằng cách
đó, vị ngôn sứ cao cả này đã cung cấp cho chúng
ta một ý tưởng về sự cao trọng của
Đức Giêsu. Ngay cụ Simêôn cũng đã loan báo Ngài
như là Đấng làm cho người này được
nâng dậy, còn kẻ khác bị té ngã (2,34). Gioan đã mô
tả cách hành động của Đấng ấy theo hai
cách: Người làm phép rửa bằng Thánh Thần và
bằng lửa; Người thu gom lúa và đốt vỏ
trấu. Đức Giêsu có quyền thông ban thực tại
cao hơn và quý hơn: Thần Khí, quyền năng sống
động vĩnh hằng của Thiên Chúa, đối
lập với mọi thứ bất lực, yếu
đuối và mong mạnh tạm bợ. Ai không sẵn sàng
với Thần Khí mang sự sống, thì phải chịu
phép rửa trong lửa tiêu diệt sự sống.
Đức Giêsu quy tụ lại với Người, trong
sự hiệp thông vĩnh cửu, lúa (thóc mẩy), tức
là những ai phù hợp với những tiêu chí nhân lành
của Người; Người loại trừ và
đẩy vào nơi bị dày vò muôn đời những
người khác, những người trống rỗng và
không có giá trị.
* Tóm kết sứ vụ Gioan (18)
Gioan đã “loan
báo Tin Mừng” cho dân chúng? Như vậy ông là người
đầu tiên loan báo Tin Mừng (Wink). Nhưng nếu theo
bản văn Lc, thì dường như thiên thần Gabiel mới
là vị đầu tiên loan báo Tin Mừng (1,19)! Thật ra,
có lẽ nên cho rằng đây là một từ tác giả
dùng để “bình” hoạt động của Gioan, là
hoạt động khuyến khích người ta quay về
với Thiên Chúa. Tác giả không cho thấy là có lần nào
Gioan đã rao giảng về “Nước Thiên Chúa”, bởi
vì ngài dành công việc này cho Đức Giêsu. Từ đó có
thể nói cho dù hoạt động của Gioan là giai
đoạn chuẩn bị cho giai đoạn Đức
Giêsu, lời rao giảng của ông vẫn không giống
với lời rao giảng của Đức Giêsu.
+ Kết
luận
Gioan không thể
loan báo một ơn cứu độ dễ dàng cho mỗi
người, dù họ muốn hay không, dù họ sẵn sàng
đón lấy hay không. Thiên Chúa ban ơn cứu độ,
nhưng không áp đặt cho loài người chúng ta,
bất kể tình trạng cá nhân chúng ta hoặc
ngược lại với ý muốn của chúng ta. Bởi
vì Gioan biết ý nghĩa của việc Đức Giêsu
đến và biết điều gì liên hệ, ông xứng
đáng vừa là sứ giả niềm vui vừa là nhà rao
giảng việc hoán cải.
5.- Gợi ý suy
niệm
1. Sự hoán cải chân thật không bao
giờ chỉ dừng lại với những tâm tình
tốt đẹp, nhưng phải được diễn
tả ra bằng một cuộc sống tương
hợp cụ thể với giáo huấn của Đức
Kitô. Các thính giả của Gioan đã hỏi: “Chúng tôi
phải làm gì đây ?”, và vị Tẩy Giả đã chỉ
dẫn cho mỗi hạng người một cách thức
cụ thể để sống hoán cải. Có người
thì phải tôn trọng công bình, có người
được đề nghị chia sẻ, có
người thì được mời tha thứ những
xúc phạm, hoặc sống lương thiện trong
nghề nghiệp của mình.
2. Người ta có thể yêu cầu gì
nơi những con người và những dân tộc
đang sống và hầu như đang chết ngộp
trong sự phồn vinh phú túc, trong khi hàng triệu
người đang sống cũng trên trái đất này
đang chết đói? Với quyền gì mà có những
người được bảo rằng họ
được duy trì và đảm bảo sự phú túc
của họ, trong khi những người khác thậm chí
không có những cái hết sức cần thiết? Tình
trạng này là một sỉ nhục, chế nhạo
lời kêu gọi hoán cải theo Tin Mừng. Cho dù cá nhân
không có nhiều điều kiện để hành
động, người ta cũng không được
chấp nhận tình trạng ấy. Họ phải làm
hết sức mà chia sẻ cách huynh đệ.
3. Liên kết với mỗi loại
địa vị, thẩm quyền, khả năng,
kiến thức… là một thứ quyền nào đó. Do
đó trong mỗi loại nghề nghiệp, luôn có những
nguy cơ và cám dỗ lạm dụng quyền hành
để bóc lột người khác hầu thủ lợi
cho mình. Mỗi thứ nghề nghiệp đều cần
một nền luân lý nghề nghiệp riêng. Và mỗi
người phải hành động với tinh thần
trách nhiệm trong vị trí của mình và trong chính nghề
của mình, phục vụ người khác bằng chính
“quyền bính” của mình, chứ không lạm dụng mà làm
thiệt hại đến người khác.
4. Nếu Đấng Mêsia đến
đưa ơn cứu độ cho thế giới, các núi
đồi (những ai có quá nhiều) phải lấp
đầy các thung lũng (những người có quá ít).
Nơi nào còn có bất bình đẳng, sự giàu có bất
công bên cạnh cảnh sống cùng quẫn, người
Kitô hữu phải san bằng các núi đồi và thung
lũng. Nếu chúng ta có một thứ mà người khác
rất cần, phải chăng chúng ta bán với giá
thật cao để trục lợi? Có khi nào chúng ta
lạm dụng địa vị, nghề nghiệp
để khống chế kẻ khác? Có khi nào chúng ta
lạm dụng quyền bính để bắt người
khác chờ hàng giờ để được một
điều chúng ta có thể làm dễ dàng tức khắc
cho họ?
5. Xin ghi lại một suy tư của thánh
Âutinh (354-430):
« Gioan cao trọng đến nỗi
người ta đã có thể coi ông là Đức Kitô.
Chẳng cần ông phải nói ra; người ta đã
nghĩ như thế rồi… Nhưng người bạn
khiêm tốn ấy của chàng rể, nhiệt thành phục
vụ danh dự của chàng rể, không muốn chiếm
lấy chỗ của chàng rể, như một chuyện
ngoại tình. Ông làm chứng cho bạn mình, ông đưa
chàng rể đích thực đến với cô dâu, ông kinh
tởm chuyện mình được yêu thương thay
thế Người bởi vì ông chỉ muốn
được yêu thương trong Người mà thôi…
Người môn đệ nghe tiếng
thầy; người ấy đứng bởi vì đang
lắng nghe thầy, bởi vì nếu người ấy
từ chối nghe thầy, chắc chắn người ấy
sẽ té ngã. Điều làm nổi bật sự cao
trọng của Gioan trước mắt chúng ta, đó là ông
đã có thể được coi là Đấng Kitô, tuy
thế, ông đã chọn làm chứng cho Đức Giêsu
Kitô, công bố sự cao cả của Người và
hạ mình xuống, chứ không coi mình là Đấng Mêsia và
tự lừa dối mình khi lừa dối kẻ khác. Do
đó, Đức Giêsu có lý khi nói về ông rằng ông còn
hơn là một ngôn sứ … Gioan đã tự hạ
trước sự cao cả của Chúa, để sự
khiêm nhường của ông đáng được sự
cao cả ấy nâng lên » (Bài Giảng thứ hai lễ Sinh
nhật thánh Gioan Tẩy Giả, số 288, 2; PL 38-39,
1302-1304).
|