Chúng tôi
sẽ phải làm gì?
Bài
Tin Mừng hôm nay nối kết với bài Tin Mừng Chúa
nhật 2 mùa vọng, một lần nữa, Luca nói với
chúng ta về Gioan Tẩy giả, vị tiền hô của
Chúa Giêsu, và về lời rao giảng của ông.
Bản
văn gồm hai phần: Trong phần thứ nhất, Gioan
trả lời câu hỏi của thính giả về
những gì họ phải làm để hưởng ứng
sứ điệp căn bản của ông – sứ
điệp loan báo về cuộc xét xử sắp xảy
đến và nêu đòi hỏi người ta phải triệt
để đổi đời. Trong phần thứ hai,
Gioan Tẩy giả phân trần rằng ông không phải là
Đấng Mêsia, và rằng ông không thể hành động
như trung gian chuyển giao Thánh Thần của
Vương Quốc đang đến.
Phần thứ nhất không phải là
cái gì đáng ngạc nhiên lắm. Bao giờ cũng có những cám dỗ
để người ta phớt lơ những bổn
phận luân lý được nêu ra ở đây, xem chúng là
quá rõ ràng, thậm chí quá bình thường. Nhưng
nếu xét kỹ hơn, ta sẽ thấy những bổn
phận luân lý ấy đầy thúc bách.
Gioan
được nhìn nhận là người mà Ngôn sứ Isaia
đã loan báo trước; là tiếng kêu trong hoang
địa, là người loan báo sự cứu độ
đang đến của Thiên Chúa, là ngôn sứ của
cuộc xét xử cuối cùng sắp xảy đến, là
ngôn sứ của cơ hội cuối cùng để hoán
cải tận căn, của sự thực rằng
người ta không thể làm hài lòng Thiên Chúa bằng
bất cứ gì khác hơn là thực hiện một
cuộc hoán cải dứt khoát trong đó thay đổi
toàn bộ và tận nền tảng cuộc sống của
mình, bứt mình ra khỏi tình trạng của mình hiện
tại. Và giờ đây người ta đến hỏi
vị giảng thuyết này về một cuộc thay
đổi tận căn và một sự bắt
đầu mới. Điều gì họ
thực sự phải làm nếu họ muốn
hưởng ứng sứ điệp không khoan
nhượng ấy? Câu trả lời
xem ra chỉ là một chuỗi những huấn dụ
đạo đức sáo mòn mà người ta có thể
gặp thấy ở bất cứ chỗ nào khác – và đó
là những huấn dụ không cần phải
được dẫn trước bởi bất cứ
sự cảnh báo thế mạt nào để làm cho nó
trở nên dễ hiểu. Các nhân viên
thuế vụ không được đòi hỏi
người ta thái quá; các binh lính phải trở nên
những con người đàng hoàng, không doạ nạt
người khác và phải biết hài lòng với lương
bổng của mình. Dĩ nhiên, Gioan không đặt
vấn đề về động cơ hay công việc
của các nhân viên thuế vụ và binh lính làm tay sai cho chính
quyền đô hộ – công việc mà những người
có vẻ đạo đức sẽ đánh giá là rất
tồi tệ và đáng khinh bỉ.
Ngay cả khi Gioan tiếp tục nói
rằng họ phải chia sẻ thực phẩm và áo
quần (nếu họ có đủ phần mình) cho
người thiếu thốn xung quanh, ông cũng đã không
đi quá điều xem ra được thấy chỉ là
những mệnh lệnh luân lý phổ quát và hiển nhiên
của con người.
Nếu chúng ta làm một liệt kê dài hơn về
những lời khuyên tương tự cho những
người thuộc các nghề nghiệp và hoàn cảnh
khác, thì sự tương phản bên ngoài sẽ vẫn còn
giữa một bên là mệnh lệnh triệt để
đòi người ta đổi đời và bên kia là
những chuẩn mực đạo đức rất thông
thường mà chắc chắn các thính giả của Gioan
đã hiểu rõ – và đã thi hành hay đã không thi hành –
trước khi nghe ông rao giảng; và nếu gạt
chuyện thiện chí qua một bên thì chắc hẳn là các
thính giả của Gioan cũng đã không chu toàn các
chuẩn mực ấy một cách hữu hiệu hơn
mấy kể từ lúc họ nghe ông kêu gọi trong bối
cảnh đặc biệt này.
Điều ấy có nghĩa gì? Bài Tin Mừng không hề
cung cấp câu trả lời trực tiếp. Chúng ta
chỉ biết rằng những tương phản
mặt ngoài này lại ăn nhập
với nhau một cách nào đó và làm bật ra ý nghĩa.
Chắc
chắn ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm rằng
những đòi hỏi đạo đức xem ra thông
thường ấy không hề là những đòi hỏi
dễ dàng chút nào – miễn là chúng ta đừng lập
lờ đánh lận con đen để chỉ xếp vào
các nguyên tắc đạo đức những gì phù hợp
và dễ dàng đối với mình. Cuộc
sống hằng ngày tự nó đòi hỏi người ta
rất nhiều. Sống được cuộc
sống đơn điệu nhạt nhẽo hằng ngày
thường khó hơn là thực hiện một hành vi phi thường nào đó mà tính anh hùng
của nó dễ làm cho ta tự mãn.
Giá
trị đạo đức và tôn giáo không duy chỉ là
tổng số ý nghĩa của các khoảnh khắc
dồn lại; giá trị ấy hình thành một toàn thể
với đặc tính riêng của nó là một toàn thể –
ngay cả khi giá trị ấy được nhận ra
xuyên qua các hành vi riêng lẻ. Nếu không
phủ nhận điều đó thì ta sẽ nghĩ gì
về một đời sống được kết
dệt trong các bổn phận, trong ý chí mới mẻ mãi
muốn trung thực và tốt lành đối với
người khác; một đời sống không cho phép mình
sa vào bạc nhược chán chường do bởi sự
vô nghĩa của hiện tại; một đời
sống với tinh thần lành mạnh sáng suốt vốn
là một ân huệ và là nhân đức Chúa ban …? Một
đời sống như vậy đâu có còn đối
lập với lời kêu gọi hoán cải của Gioan
nữa! Một đời sống đạo đức
xem ra thông thường như thế thực sự cho
thấy rằng sự hoán cải không phải là một cái
gì đó xảy ra vào một khoảnh khắc nhất định
trong thời gian – nhưng là một nguyên động
lực giấu ẩn thấm nhuần vào bản chất
trông có vẻ bình thường của đời sống
xét như một toàn thể.
Nhưng không phải chỉ vậy. Đó không phải là
tất cả ý nghĩa rút ra được từ sự
tương phản ngoại tại nói trên. Còn một ý nghĩa gì đó khác nữa – (có lẽ
không thể cảm nhận được ít là trong một
số trường hợp) – hàm chứa trong việc chúng
ta thi hành những bổn phận hằng ngày của mình,
kể cả những bổn phận thuộc loại
tiện ích cho chính mình.
Trong cuộc sống thường ngày,
nhiều lúc chúng ta bị đẩy vào những tình
huống trong đó ta bỗng thấy các công việc
lặt vặt buồn tẻ của mình chẳng có
nghĩa lý gì, hoặc thậm chí phi lý. Có những lúc bất
chợt tính chất đạo đức thông
thường trở nên chẳng đáng gì. Ý nghĩa đạo đức thông thường
bỗng biến mất, hoặc đổi thành một cái
gì hoàn toàn khác. Tính hiệu dụng của một hành vi bỗng tiêu ma, hoặc đã chuyển vào
cõi thiêng thánh! Đó là những lúc mà ta phải
làm việc bổn phận chỉ vì đó là bổn
phận chứ không cảm nhận được một
sự tưởng thưởng nào; đó là những lúc mà
ta thấy bổn phận giống như một thứ
hình phạt.
Một kẻ đang có danh giá bỗng
không còn được trọng vọng trước
mặt người ta nữa, nhưng trở thành một
kẻ khờ dại vụng về bước đi
giữa đời.
Đột nhiên, thiên hạ triệt để lợi
dụng tấm lòng vị tha; thiên hạ không còn nể
trọng sự thành thực mà thậm chí sử dụng nó
như một thứ vũ khí để chống lại
chính kẻ thành thực!
Có
cả ngàn cách trong đó tính chất đạo đức
thông thường có thể trở thành một điều
hết sức mỉa mai, trong tất cả tính hiển
nhiên của nó và chẳng thấy ở nó ý nghĩa gì là
đặc biệt anh hùng. Nó không còn cần thiết
nữa; nó không còn sảnh sinh ra kết quả rõ ràng mà chính
người thực hiện mong muốn nhận
được …
Song nếu như người ta vẫn
kiên thủ thi hành các việc đạo đức thông
thường ấy ngay cả khi nó không còn có lợi
nữa, ngay cả khi nó trở thành dường như vô
nghĩa – thì điều gì xảy ra? Những việc thi hành như thế
sẽ trở thành một loại “tiền hô” của Thiên
Chúa, Đấng là nguồn ơn cứu độ và là
nguồn mạch tự do. Từ “Thiên Chúa” ở đây
không được hiểu một cách mơ hồ chung chung. Từ “Thiên Chúa” ở
đây mang một ý nghĩa trực tiếp. “Thiên Chúa”
ở đây được cảm nghiệm trong chính
cuộc biến đổi lặng lẽ nhưng phi
thường này, cuộc biến đổi làm hoàn thành
trọn vẹn ý nghĩa cho hành vi
đạo đức thường ngày của chúng ta.
Khi
chúng ta dám điên rồ, khi chúng ta từ chối tranh
chấp dù mình có cơ hội giành phần thắng, khi chúng
ta nhất mực yêu thương dù ngay từ đầu
mình không nắm chắc sẽ được yêu
thương đáp lại, khi chúng ta vẫn trung thực
với những xác tín của mình – thậm chí với
sự bất lợi của mình dù sự bất lợi
đó không phải chỉ là một giai đoạn trong
cuộc chiến mà ta chắc chắn sẽ đạt
chiến thắng chung cuộc, tóm lại – khi chúng ta không
lập lờ với lương tâm mình và không còn nhập
nhằng lẫn lộn những đòi hỏi của
lương tâm với tính hiệu dụng và ý nghĩa
vật chất hiển nhiên được chủ yếu
hàm chứa (và hoàn toàn có thể biện minh) trong tính
chất đạo đức thường ngày… đó là
những khi mà chúng ta gặp gỡ chính Thiên Chúa, dù có lẽ
chúng ta không gọi tên Ngài và dù ta không ý thức rằng mình
đang gặp Ngài.
Để
cho sự đòi hỏi của lương tâm chuyển hoá
ý nghĩa của những hành vi đạo đức
thường ngày đằng sau vẻ bên ngoài của chúng –
đó là một thách đố, và nếu chúng ta từ thác
sự thách đố này (nhiều khi một cách rất khéo
léo), thì đó chính là lúc Thiên Chúa đang xét xử chúng ta.
Ngược lại, nếu chúng ta hưởng ứng
tiếng gọi bất chợt ấy, chúng ta sẽ
được chính Thiên Chúa là nguồn mạch tự do và
là nguồn ơn cứu độ. Tất cả
điều này có thể diễn ra một cách thật âm
thầm lặng lẽ chính khi ta chu toàn
các bổn phận hằng ngày. Chúng ta dường như
cũng ứng xử theo khuôn mẫu
thông thường của con người, hết mực
kính trọng người khác (ngay cả dù mình đang ở
vị trí thượng phong trên họ). Nhưng rồi bất
chợt, trong nháy mắt, chúng ta ở trong sa
mạc – sa mạc cứu độ của Thiên Chúa.
Nếu
chúng ta trân trọng giương cao nguyên tắc đạo
đức thường ngày và không lập lờ quẳng
bỏ nó khi nó không đem lại lợi ích cho mình, đó là
chúng ta đang thật sự tiến tới một sự
biến đổi tận căn trong tâm hồn, cho dù chúng
ta không thể xác định rõ sự biến đổi
ấy diễn ra chính xác vào lúc nào. Bấy giờ chúng ta
cầu khẩn và tán dương ân sủng Chúa, ân sủng
lấp đầy các chiều sâu mà những nẻo
bước của cuộc sống bình dị hằng ngày
chúng ta thực sự vẫn hướng về,
vươn lên tới điểm mà ở đó chúng ta không
chút hãi sợ để cho chính mình rơi vào cõi sâu thăm
thẳm ấy.
Chúng tôi sẽ làm gì? Dường như bị
khiếp sợ, người ta đã nêu câu hỏi ấy
sau bài giảng đầy tính đe doạ của Gioan
Tẩy giả về tội lỗi và về sự xét
xử tất yếu sẽ xảy đến, về
cuộc hoán cải toàn diện. Gioan
đã trả lời họ. Và thật
bất ngờ, câu trả lời của ông đặt chúng
ta vào ngay chính chỗ hiện tại của mình, yêu cầu
ta sống một cách hết sức bình thường, yêu cầu
ta tiếp tục nhẫn nại sống cuộc sống
thực tế của mình. Câu trả lời ấy cho
thấy rằng chính ở đây và chính lúc này ta có thể
cảm nghiệm Nước Thiên Chúa đang đến,
chỉ cần chúng ta thực sự muốn cảm
nghiệm, và chỉ cần chúng ta chịu nhìn nhận –
trong niềm cậy trông – ý nghĩa ẩn giấu và
năng lực nội tại thâm sâu của cuộc
sống thường ngày.
|