BÀI
LỜI CHÚA 28
VUA
Salômôn khôn ngoan, thông Thái
Trích
sách 1 Các Vua, ch.3 và 5 BÀI LỜI CHÚA 28
VUA
Salômôn khôn ngoan, thông Thái
Trích sách 1 Các Vua, ch.3 và 5
Thiên Chúa đã ban cho Vua Sa-lo-môn
được khôn ngoan, thông thái rất bao la, lòng trí
quảng bác như trùng khơi, hơn tất cả các
người hiền triết Phương Đông hay Ai
cập hay bất cứ ai trong thiên hạ. Người ta
từ các dân thiên hạ kéo đến nghe sự khôn ngoan
của ông.
Một
vụ kiện sau đây làm chứng về sự khôn ngoan
đó. Bấy giờ có hai gái điếm đến
kiện nhau :
- Dám thưa Chúa thượng, hai
đứa chúng tôi ở chung một nhà, tôi sinh con vài ngày thì
chị ấy cũng đẻ. Một đêm nọ,
chị ngủ mê đè chết con chị. Chị lén
đến giường tôi bồng lấy con tôi, và
đặt đứa con đã chết của chị thay
vào, lúc ấy tôi ngủ nên không biết. Đến sáng,
thức dậy cho con bú, tôi thấy thằng bé chết
rồi. Nhưng khi nhìn kỹ, thấy nó không phải con
tôi.
Nhưng
chị kia, vừa nghe nói, liền cãi trước mặt
vua rằng :
- Không
đâu ! Đứa sống là con tôi, đứa chết là
con chị.
Cứ
thế cãi qua cãi lại. Vua phán :
- Thôi,
các ngươi im đi ! Quân bay, lấy thanh kiếm ra
đây cho trẫm !
Quân
hầu đưa thanh bảo kiếm của Vua ra. Vua
truyền :
- Phanh thây đứa bé sống làm
hai cho mỗi chị một nửa.
Chị
có đứa con sống mới tâu Vua, vì lòng dạ chị
bỏng xót lên vì con :
-
Dám thưa Chúa thượng, xin đừng
giết nó, thà cứ cho chị kia đứa bé, để
nó được sống còn hơn!
Nhưng
chị kia nói:
- Xin cứ phanh thây, cho nó khỏi
thuộc về tôi, cũng chẳng thuộc về chị
ấy, thế là khỏi cãi cọ !
Lúc
ấy, Nhà Vua mới lên tiếng xử :
- Người
mẹ xót con, chính là mẹ thật đứa trẻ. Hãy
trao đứa bé cho chị ta, đừng giết nó !
Toàn thể dân Israen nghe lời phân
xử của Vua thì đem lòng kính phục, vì họ
thấy nơi Vua có sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
* Đó là
Lời Chúa ! - Tạ ơn Chúa !
Suy
niệm Lời Chúa
Sự thông thái, sự khôn ngoan, nói tóm, trí thông minh là
quà tặng của Thiên Chúa cho loài người, lúc Ngài
dựng nên họ.
+ Cứ suy thì sẽ thấy : Có nhiều thú
vật mạnh hơn loài người như sư tử,
hổ, voi... ; nhanh hơn như ngựa, thỏ, chim én... ;
thính tai, thính mũi hơn như chó, mèo, chim săn
mồi... ; ấy thế mà loài người đã có thể
tự bảo vệ chống lại chúng, lại còn
thắng chúng và bắt chúng làm việc cho mình. Cách đây
một trăm ngàn năm, người cổ đại
đã bảo vệ lều và hang trú ẩn của mình
khỏi thú dữ bằng cách đốt một đống
lửa. Họ đã có thể đánh bẫy
được các con voi khổng lồ gọi là “ma mút”,
cũng như giết các mãnh thú khác bằng cung, tên, mũi
lao, và bây giờ bằng súng đạn. Loài người
khắc phục mãnh thú, rồi thuần hóa chúng : nào bắt
voi kéo gỗ, trâu bò kéo cầy, ngựa kéo xe và làm vật
để cưỡi, bắt sư tử, gấu làm trò
xiếc ta coi.
Nếu mắt người không tinh, thì người
lại biết chế ra ống nhòm ; ngày nay ống kính
hiển vi điện tử nhìn một con vi trùng lớn
bằng con voi; biết chế rađa để nhìn thấy
vật từ xa hàng ngàn cây số, ngay cả trong đêm
tối. Không thính tai như nhiều loài vật, thì biết
chế ra máy thu thanh, máy ghi tiếng động dưới
gầm đất hay dưới biển sâu ; bơi không
bằng cá thì chế ra thuyền, ca nô, tàu thủy ; không bay
được như chim, thì chế ra phi cơ, bây giờ
là phản lực, bay hàng chục ngàn cây số, với
tốc độ 900km/giờ và còn vượt tường
âm thanh (1.100km/giờ), tốc độ không chim nào
đạt tới... Nói ra không hết, không cùng : nào
điện tử, nào động cơ, nào điện khí,
nào nguyên tử năng... Loài chim có hót, điệu hót nó muôn
đời vẫn chỉ có mấy cung, còn loài người
biết ca, biết hát, hát đơn ca, hát hợp ca, sáng tác
hàng ngàn hàng vạn bài ca, chế tạo các dàn nhạc muôn
cái, mỗi cái mỗi cung mỗi giọng... Loài
người còn biết vẽ, biết nặn
tượng, biết đánh cờ, biết thêu thùa, may vá,
mỗi mùa một thời trang... biến hóa không cùng…
khỏi nói dài thêm.
Tất cả các cái đó chỉ có thể có
được, vì loài người có trí thông minh, có trí
tưởng tượng, có ý chí, có tình cảm, biết
học hỏi, và biết hợp tác với nhau mà làm,
biết dạy nhau để người sau làm tốt
hơn, tiến bộ hơn người trước. Nói
tắt, vì có các quan năng tinh thần, mà ta gọi là linh
hồn.
+ Nhưng ai ban cho họ các quan
năng ấy ? Mặc cho ai nghĩ sao thì nghĩ,
chúng ta, người Công giáo, lấy trí thông minh suy xét thì
thấy mọi sự đều phải có nguyên nhân :
đồng hồ phải có thợ làm ra, nhà phải có
người xây, nước phải có Vua hay thủ lãnh, trí
khôn ta phải có Thượng Đế phú ban. Không
thể tự nhiên mà có. Vũ trụ vật chất làm sao
ban cho ta tinh thần được ? Nó không có tinh thần,
không có trí khôn, sao nó ban cho ta ? Không ai có thể cho
người khác cái mà chính nó không có !
*
Thêm vào suy luận khôn ngoan tự nhiên đó, đức tin dựa vào
Lời Chúa mặc khải trong Kinh Thánh, đến dạy
ta thêm rõ hơn và chắc chắn hơn rằng : trí khôn ta,
tinh thần ta, do Thiên Chúa phú bẩm cho ta. Chỉ vì
người ta không thấy, cho nên mới từ chối
không tin điều đó, hoặc cho đi không thấy
bằng mắt, thì vẫn có thể dùng lý trí ngay thẳng
mà thấy bằng tinh thần.
Còn chúng ta tin, và chắc chắn chúng ta đúng
rằng : Chính Thiên Chúa, sau khi đã ban cho ta một thân xác,
còn phú ban vào thân xác ấy tinh thần, các quan năng, các
năng khiếu, ta gọi tắt là linh hồn,
tức là một cái hồn, không phải chỉ là sinh hồn như cây
cỏ, không chỉ là giác
hồn như súc vật, song là linh hồn, hồn linh thiêng, cao siêu, không
chết, không tan rã, sống mãi đời đời.
Đây bằng chứng Kinh
Thánh : “Yavê Thiên Chúa đã
nắn hình người với bụi lấy từ
đất đai, và Người đã hà hơi sống vào
mũi nó và con người đã thành mạng sống” (Kn 2.7).
Chắc ai cũng biết là Kinh Thánh tả cách nôm na, bình dân
Thiên Chúa như có tay chân, và như ông thợ gốm nặn
tượng đất. Bản văn Kinh Thánh cổ này,
đã được gần 40 thế kỷ rồi,
xưa lắm, cổ lắm ; cho nên viết vào thời
cổ ấy, loài người còn bán khai, cổ lỗ,
phải tả cách bình dân, mộc mạc như thế
mới dễ hiểu, dễ nhớ. Song với chúng ta
sống ở thời đại văn minh, khoa học
thế kỷ 20, ta chỉ cần hiểu cái ý muốn nói
gì thôi. Vậy ý muốn nói là Thiên Chúa dựng nên con
người bằng những chất liệu có sẵn
trong trời đất, và có khi phải trải qua bao nhiêu thời
gian nắn nót, chứ không phải đùng một cái là con
người hiện ra như từ đất nẻ chui
lên nguyên xi.
Còn câu : “Người hà hơi sống vào mũi nó”, ta
phải hiểu ý muốn nói rằng : Thiên Chúa phú bẩm
vào trong thân xác con người một sự sống vừa
tự nhiên, vừa linh thiêng, đó là sự sống của
Thiên Chúa, có thể nói cách gợi hình rằng : Thiên Chúa hà
hơi, cái hơi sống (sinh khí)
từ buồng phổi Thiên Chúa vào trong con người,
tức là sự sống của
Thiên Chúa, vì vậy họ mới có hồn linh thiêng, mà
khi tạo dựng các súc vật không thấy Thiên Chúa làm
như vậy, Người chỉ dựng bằng một
lời phán, một việc quyền năng, là chúng có sự
sống tự nhiên của loài chúng thế thôi.
Nhờ một hai đoạn Kinh Thánh ở chỗ
khác, ý nghĩa về hồn thiêng bất tử mới càng
rõ rệt. Đó là đoạn 1, câu 26 và 27 của sách Sáng
thế. Sau khi Thiên Chúa đã dựng các loài, các vật,
trời đất, tinh tú..., Người long trọng phán :
“Ta hãy làm ra con người theo
hình ảnh Ta, như họa ảnh của Ta... Chúng sẽ
thống trị trên cá biển, chim trời...”. Loài
người được giống hình ảnh Thiên Chúa nghĩa
là gì ? Nghĩa là giống như con giống cha, cha sao thì
sinh con làm vậy. Thiên Chúa là Cha, Người có trí thông minh,
có tài năng, có tự do, có yêu mến ; thì Người
dựng nên ta giống
như Người vậy, cũng có trí khôn, có tài
năng, có tự do, có yêu mến, có sự sống như
Người ; tuy nhiên không
bằng Người được, chỉ có
một phần nào thôi.
Do đó, ta thấy ông Sa-lo-môn khôn ngoan, uyên bác
chừng ấy. Trong lịch sử nhân loại, ta
được đọc thấy biết bao nhà bác
học, triết gia, khoa học gia, nhạc sĩ lừng
lẫy như Anh-Stanh (Einstein), Pát-stơ (Pasteur), Mô-da
(Mozart), Bi-thô-vơn (Beethoven), vv...
Đoạn sách Khôn ngoan 2. 23-24 thì nhấn đến tính
bất tử : “Quả thế, Thiên Chúa đã sáng
tạo con người cho họ được
trường tồn bất diệt. Họ được
Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính (bất
diệt) Người.”
Nhưng ta chớ vội dừng lại ở
đây. Với Chúa Giêsu và Tân Ước, ta được
dạy thêm rằng : ngoài việc mọi người bất
luận là ai đều có trí khôn hay hồn thiêng bất
tử như thế, song riêng người tín hữu,
những kẻ tin vào Chúa Giêsu và chịu Phép Rửa
tội, còn được thông chia bản tính thần
linh, bất tử và vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Như thế, họ lại càng giống hình ảnh Thiên
Chúa hơn nữa, đến nỗi, họ
được gọi là “những
kẻ sinh bởi Thiên Chúa” “con cái Thiên Chúa” (Ga 1.12; 1Ga 3.1-2;
Rm 8.14-15 ).
Khi được biết Thiên Chúa thương ta
như thế và đã ban cho loài người
được các của quí báu như vậy, thì ai còn có
thể vô tâm mà không hết lòng tạ ơn Ngài. Điều
ta sẽ nói với nhau đây, không để chống
đối hay chê ghét ai, nhưng thực đáng
thương thay cho những người vì mù quáng hay ngu
dốt, thiếu suy nghĩ đến nơi đến
chốn, mà dám bảo rằng loài người chỉ
như con vật, con trâu, con bò, cầy bừa, làm lụng
tối tăm mặt mũi suốt đời, rồi
gục xuống chết là hết. Tội nghiệp cho
họ, họ không được đức tin cho biết
những chân lý tốt đẹp và phấn khởi như
chúng ta đã được. Điều này cũng là
một lý do thêm để tạ ơn Chúa, tức là không
những Chúa cho ta có
hồn thiêng, mà còn cho ta
biết là ta có sự đó nữa.
Kỳ này, đến đây là đủ, kỳ sau,
ta sẽ bàn : biết có linh hồn và các quan năng ấy,
ta phải phát triển làm sao ?
*
Chúng ta cùng cầu nguyện : “Lạy Chúa, Đấng
Tạo dựng muôn loài, muôn vật ! Chúng con xin dâng lời
chân thành cảm tạ Chúa, vì đã cho loài người chúng
con vinh dự sang quí trên mọi loài, mọi vật của
vũ trụ này, là có hồn linh thiêng bất tử,
để chúng con bá chủ muôn loài và để chúng con
biết Chúa, yêu mến Chúa cùng phục vụ đồng
loại sống cuộc đời vui tươi, hào hứng,
đáng sống ở đời này, dọn về sống
mãi muôn đời với Chúa đời sau. Chúng con cũng
làm giờ đền tạ này, để xin Chúa thứ tha
cho chúng con biết bao lần không coi trọng linh hồn
mình. Xin tha thứ cho tất cả những ai
được có linh hồn mà từ chối không tin,
phủ nhận món quà tình thương của Chúa. Xin Chúa
nhận lời chúng con, vì công nghiệp Chúa Kitô, Con Chúa, Chúa
chúng con. Amen !”
Tích
truyện
Xưa có một người mù, lúc nào cũng kết
thúc lời cầu nguyện bằng câu : “Nếu
điều con xin đó có ích cho linh hồn con”. Một hôm,
người ta dẫn ông đến trước mộ
thánh Tôma hay làm phép lạ, để xin thánh nhân làm phép
lạ chữa cho ông khỏi mù. Ông được nhận
lời : đôi mắt ông vụt sáng, nhìn rõ mọi vật.
Còn gì vui sướng bằng, ông như chết mà
được sống lại. Nhưng sau những giây phút
vui mừng, sung sướng, ông chợt nhớ mình quên
kết thúc lời cầu nguyện bằng câu
thường lệ: “Nếu điều con xin đó có ích cho
linh hồn con”, nên ông vội vã trở lại trước
mồ vị thánh, ông xin cho được mù lại,
nếu điều xin đó có ích cho phần rỗi linh
hồn ông hơn là được sáng mắt mà mất linh
hồn. Quả nhiên, đôi mắt ông lại hóa mù như
trước ; nhưng từ đó, đời ông càng thêm
thánh thiện. Quả ông đã biết trọng linh hồn
hơn thể xác.
RRRR
Thiên Chúa đã ban cho Vua Sa-lo-môn
được khôn ngoan, thông thái rất bao la, lòng trí
quảng bác như trùng khơi, hơn tất cả các
người hiền triết Phương Đông hay Ai
cập hay bất cứ ai trong thiên hạ. Người ta
từ các dân thiên hạ kéo đến nghe sự khôn ngoan
của ông.
Một
vụ kiện sau đây làm chứng về sự khôn ngoan
đó. Bấy giờ có hai gái điếm đến
kiện nhau :
- Dám thưa Chúa thượng, hai
đứa chúng tôi ở chung một nhà, tôi sinh con vài ngày thì
chị ấy cũng đẻ. Một đêm nọ,
chị ngủ mê đè chết con chị. Chị lén
đến giường tôi bồng lấy con tôi, và
đặt đứa con đã chết của chị thay
vào, lúc ấy tôi ngủ nên không biết. Đến sáng,
thức dậy cho con bú, tôi thấy thằng bé chết
rồi. Nhưng khi nhìn kỹ, thấy nó không phải con
tôi.
Nhưng
chị kia, vừa nghe nói, liền cãi trước mặt
vua rằng :
- Không
đâu ! Đứa sống là con tôi, đứa chết là
con chị.
Cứ
thế cãi qua cãi lại. Vua phán :
- Thôi,
các ngươi im đi ! Quân bay, lấy thanh kiếm ra
đây cho trẫm !
Quân
hầu đưa thanh bảo kiếm của Vua ra. Vua
truyền :
- Phanh thây đứa bé sống làm
hai cho mỗi chị một nửa.
Chị
có đứa con sống mới tâu Vua, vì lòng dạ chị
bỏng xót lên vì con :
-
Dám thưa Chúa thượng, xin đừng
giết nó, thà cứ cho chị kia đứa bé, để
nó được sống còn hơn!
Nhưng
chị kia nói:
- Xin cứ phanh thây, cho nó khỏi
thuộc về tôi, cũng chẳng thuộc về chị
ấy, thế là khỏi cãi cọ !
Lúc
ấy, Nhà Vua mới lên tiếng xử :
- Người
mẹ xót con, chính là mẹ thật đứa trẻ. Hãy
trao đứa bé cho chị ta, đừng giết nó !
Toàn thể dân Israen nghe lời phân
xử của Vua thì đem lòng kính phục, vì họ
thấy nơi Vua có sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
* Đó là
Lời Chúa ! - Tạ ơn Chúa !
Suy
niệm Lời Chúa
Sự thông thái, sự khôn ngoan, nói tóm, trí thông minh là
quà tặng của Thiên Chúa cho loài người, lúc Ngài
dựng nên họ.
+ Cứ suy thì sẽ thấy : Có nhiều thú
vật mạnh hơn loài người như sư tử,
hổ, voi... ; nhanh hơn như ngựa, thỏ, chim én... ;
thính tai, thính mũi hơn như chó, mèo, chim săn
mồi... ; ấy thế mà loài người đã có thể
tự bảo vệ chống lại chúng, lại còn
thắng chúng và bắt chúng làm việc cho mình. Cách đây
một trăm ngàn năm, người cổ đại
đã bảo vệ lều và hang trú ẩn của mình
khỏi thú dữ bằng cách đốt một
đống lửa. Họ đã có thể đánh bẫy
được các con voi khổng lồ gọi là “ma mút”,
cũng như giết các mãnh thú khác bằng cung, tên, mũi
lao, và bây giờ bằng súng đạn. Loài người
khắc phục mãnh thú, rồi thuần hóa chúng : nào bắt
voi kéo gỗ, trâu bò kéo cầy, ngựa kéo xe và làm vật
để cưỡi, bắt sư tử, gấu làm trò
xiếc ta coi.
Nếu mắt người không tinh, thì người
lại biết chế ra ống nhòm ; ngày nay ống kính
hiển vi điện tử nhìn một con vi trùng lớn
bằng con voi; biết chế rađa để nhìn thấy
vật từ xa hàng ngàn cây số, ngay cả trong đêm
tối. Không thính tai như nhiều loài vật, thì biết
chế ra máy thu thanh, máy ghi tiếng động dưới
gầm đất hay dưới biển sâu ; bơi không
bằng cá thì chế ra thuyền, ca nô, tàu thủy ; không bay
được như chim, thì chế ra phi cơ, bây giờ
là phản lực, bay hàng chục ngàn cây số, với
tốc độ 900km/giờ và còn vượt tường
âm thanh (1.100km/giờ), tốc độ không chim nào
đạt tới... Nói ra không hết, không cùng : nào
điện tử, nào động cơ, nào điện khí,
nào nguyên tử năng... Loài chim có hót, điệu hót nó muôn
đời vẫn chỉ có mấy cung, còn loài người
biết ca, biết hát, hát đơn ca, hát hợp ca, sáng tác
hàng ngàn hàng vạn bài ca, chế tạo các dàn nhạc muôn
cái, mỗi cái mỗi cung mỗi giọng... Loài
người còn biết vẽ, biết nặn
tượng, biết đánh cờ, biết thêu thùa, may vá,
mỗi mùa một thời trang... biến hóa không cùng…
khỏi nói dài thêm.
Tất cả các cái đó chỉ có thể có
được, vì loài người có trí thông minh, có trí
tưởng tượng, có ý chí, có tình cảm, biết
học hỏi, và biết hợp tác với nhau mà làm,
biết dạy nhau để người sau làm tốt
hơn, tiến bộ hơn người trước. Nói
tắt, vì có các quan năng tinh thần, mà ta gọi là linh
hồn.
+ Nhưng ai ban cho họ các quan
năng ấy ? Mặc cho ai nghĩ sao thì nghĩ,
chúng ta, người Công giáo, lấy trí thông minh suy xét thì
thấy mọi sự đều phải có nguyên nhân :
đồng hồ phải có thợ làm ra, nhà phải có
người xây, nước phải có Vua hay thủ lãnh, trí
khôn ta phải có Thượng Đế phú ban. Không
thể tự nhiên mà có. Vũ trụ vật chất làm sao
ban cho ta tinh thần được ? Nó không có tinh thần,
không có trí khôn, sao nó ban cho ta ? Không ai có thể cho
người khác cái mà chính nó không có !
*
Thêm vào suy luận khôn ngoan tự nhiên đó, đức tin dựa vào
Lời Chúa mặc khải trong Kinh Thánh, đến dạy
ta thêm rõ hơn và chắc chắn hơn rằng : trí khôn ta,
tinh thần ta, do Thiên Chúa phú bẩm cho ta. Chỉ vì
người ta không thấy, cho nên mới từ chối
không tin điều đó, hoặc cho đi không thấy
bằng mắt, thì vẫn có thể dùng lý trí ngay thẳng
mà thấy bằng tinh thần.
Còn chúng ta tin, và chắc chắn chúng ta đúng
rằng : Chính Thiên Chúa, sau khi đã ban cho ta một thân xác,
còn phú ban vào thân xác ấy tinh thần, các quan năng, các
năng khiếu, ta gọi tắt là linh hồn,
tức là một cái hồn, không phải chỉ là sinh hồn như cây
cỏ, không chỉ là giác
hồn như súc vật, song là linh hồn, hồn linh thiêng, cao siêu, không
chết, không tan rã, sống mãi đời đời.
Đây bằng chứng Kinh
Thánh : “Yavê Thiên Chúa đã
nắn hình người với bụi lấy từ
đất đai, và Người đã hà hơi sống vào
mũi nó và con người đã thành mạng sống” (Kn 2.7).
Chắc ai cũng biết là Kinh Thánh tả cách nôm na, bình dân
Thiên Chúa như có tay chân, và như ông thợ gốm nặn
tượng đất. Bản văn Kinh Thánh cổ này,
đã được gần 40 thế kỷ rồi,
xưa lắm, cổ lắm ; cho nên viết vào thời
cổ ấy, loài người còn bán khai, cổ lỗ,
phải tả cách bình dân, mộc mạc như thế mới
dễ hiểu, dễ nhớ. Song với chúng ta sống
ở thời đại văn minh, khoa học thế
kỷ 20, ta chỉ cần hiểu cái ý muốn nói gì thôi.
Vậy ý muốn nói là Thiên Chúa dựng nên con người
bằng những chất liệu có sẵn trong trời
đất, và có khi phải trải qua bao nhiêu thời gian nắn
nót, chứ không phải đùng một cái là con người
hiện ra như từ đất nẻ chui lên nguyên xi.
Còn câu : “Người hà hơi sống vào mũi nó”, ta
phải hiểu ý muốn nói rằng : Thiên Chúa phú bẩm
vào trong thân xác con người một sự sống vừa
tự nhiên, vừa linh thiêng, đó là sự sống của
Thiên Chúa, có thể nói cách gợi hình rằng : Thiên Chúa hà
hơi, cái hơi sống (sinh khí)
từ buồng phổi Thiên Chúa vào trong con người,
tức là sự sống của
Thiên Chúa, vì vậy họ mới có hồn linh thiêng, mà
khi tạo dựng các súc vật không thấy Thiên Chúa làm
như vậy, Người chỉ dựng bằng một
lời phán, một việc quyền năng, là chúng có sự
sống tự nhiên của loài chúng thế thôi.
Nhờ một hai đoạn Kinh Thánh ở chỗ
khác, ý nghĩa về hồn thiêng bất tử mới càng
rõ rệt. Đó là đoạn 1, câu 26 và 27 của sách Sáng
thế. Sau khi Thiên Chúa đã dựng các loài, các vật,
trời đất, tinh tú..., Người long trọng phán :
“Ta hãy làm ra con người theo
hình ảnh Ta, như họa ảnh của Ta... Chúng sẽ
thống trị trên cá biển, chim trời...”. Loài
người được giống hình ảnh Thiên Chúa
nghĩa là gì ? Nghĩa là giống như con giống cha, cha
sao thì sinh con làm vậy. Thiên Chúa là Cha, Người có trí
thông minh, có tài năng, có tự do, có yêu mến ; thì
Người dựng nên ta giống
như Người vậy, cũng có trí khôn, có tài
năng, có tự do, có yêu mến, có sự sống như
Người ; tuy nhiên không
bằng Người được, chỉ có
một phần nào thôi.
Do đó, ta thấy ông Sa-lo-môn khôn ngoan, uyên bác
chừng ấy. Trong lịch sử nhân loại, ta
được đọc thấy biết bao nhà bác
học, triết gia, khoa học gia, nhạc sĩ lừng
lẫy như Anh-Stanh (Einstein), Pát-stơ (Pasteur), Mô-da
(Mozart), Bi-thô-vơn (Beethoven), vv...
Đoạn sách Khôn ngoan 2. 23-24 thì nhấn đến tính
bất tử : “Quả thế, Thiên Chúa đã sáng
tạo con người cho họ được
trường tồn bất diệt. Họ được
Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính (bất
diệt) Người.”
Nhưng ta chớ vội dừng lại ở
đây. Với Chúa Giêsu và Tân Ước, ta được
dạy thêm rằng : ngoài việc mọi người bất
luận là ai đều có trí khôn hay hồn thiêng bất
tử như thế, song riêng người tín hữu,
những kẻ tin vào Chúa Giêsu và chịu Phép Rửa
tội, còn được thông chia bản tính thần
linh, bất tử và vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Như thế, họ lại càng giống hình ảnh Thiên
Chúa hơn nữa, đến nỗi, họ
được gọi là “những
kẻ sinh bởi Thiên Chúa” “con cái Thiên Chúa” (Ga 1.12; 1Ga 3.1-2;
Rm 8.14-15 ).
Khi được biết Thiên Chúa thương ta
như thế và đã ban cho loài người
được các của quí báu như vậy, thì ai còn có
thể vô tâm mà không hết lòng tạ ơn Ngài. Điều
ta sẽ nói với nhau đây, không để chống
đối hay chê ghét ai, nhưng thực đáng
thương thay cho những người vì mù quáng hay ngu
dốt, thiếu suy nghĩ đến nơi đến
chốn, mà dám bảo rằng loài người chỉ
như con vật, con trâu, con bò, cầy bừa, làm lụng
tối tăm mặt mũi suốt đời, rồi
gục xuống chết là hết. Tội nghiệp cho
họ, họ không được đức tin cho biết
những chân lý tốt đẹp và phấn khởi như
chúng ta đã được. Điều này cũng là
một lý do thêm để tạ ơn Chúa, tức là không
những Chúa cho ta có
hồn thiêng, mà còn cho ta
biết là ta có sự đó nữa.
Kỳ này, đến đây là đủ, kỳ sau,
ta sẽ bàn : biết có linh hồn và các quan năng ấy,
ta phải phát triển làm sao ?
*
Chúng ta cùng cầu nguyện : “Lạy Chúa, Đấng
Tạo dựng muôn loài, muôn vật ! Chúng con xin dâng lời
chân thành cảm tạ Chúa, vì đã cho loài người chúng
con vinh dự sang quí trên mọi loài, mọi vật của
vũ trụ này, là có hồn linh thiêng bất tử,
để chúng con bá chủ muôn loài và để chúng con
biết Chúa, yêu mến Chúa cùng phục vụ đồng
loại sống cuộc đời vui tươi, hào
hứng, đáng sống ở đời này, dọn về
sống mãi muôn đời với Chúa đời sau. Chúng con
cũng làm giờ đền tạ này, để xin Chúa
thứ tha cho chúng con biết bao lần không coi trọng linh
hồn mình. Xin tha thứ cho tất cả những ai
được có linh hồn mà từ chối không tin,
phủ nhận món quà tình thương của Chúa. Xin Chúa
nhận lời chúng con, vì công nghiệp Chúa Kitô, Con Chúa, Chúa
chúng con. Amen !”
Tích
truyện
Xưa có một người mù, lúc nào cũng kết
thúc lời cầu nguyện bằng câu : “Nếu
điều con xin đó có ích cho linh hồn con”. Một hôm,
người ta dẫn ông đến trước mộ
thánh Tôma hay làm phép lạ, để xin thánh nhân làm phép
lạ chữa cho ông khỏi mù. Ông được nhận
lời : đôi mắt ông vụt sáng, nhìn rõ mọi vật.
Còn gì vui sướng bằng, ông như chết mà
được sống lại. Nhưng sau những giây phút
vui mừng, sung sướng, ông chợt nhớ mình quên
kết thúc lời cầu nguyện bằng câu
thường lệ: “Nếu điều con xin đó có ích
cho linh hồn con”, nên ông vội vã trở lại
trước mồ vị thánh, ông xin cho được mù
lại, nếu điều xin đó có ích cho phần
rỗi linh hồn ông hơn là được sáng mắt mà
mất linh hồn. Quả nhiên, đôi mắt ông lại hóa
mù như trước ; nhưng từ đó, đời ông
càng thêm thánh thiện. Quả ông đã biết trọng linh
hồn hơn thể xác.
RRRR
|