Vì Thánh kinh
đã xác định :
“… Số phận người ta là
phải chết một lần và sau đó là phán xét”. (Dt 9.26tt).
Nghĩa
là người ta chỉ chết có một lần, và sau cái
chết đó là chịu sự phán xét của Thiên Chúa, nó
sẽ định đoạt số phận đời
đời của họ, không có kiếp sống phàm
trần nào khác nữa tiếp nối.
Đối
với Đức Giêsu Kitô, cũng như với tất
cả truyền thống Kitô giáo, con người khi còn
sống ở trần gian, là những lữ khách có
tự do chọn lựa hướng đi cho
đời mình, và tùy sự chọn lựa ấy mà số
phận mỗi người sẽ được
định đoạt cho đến đời
đời, khi cái chết là đích điểm chung
cuộc của cuộc hành trình ấy xảy ra.
Sau
cái chết, không còn có khả năng thay đổi
đường đi hay sửa đổi vận mệnh
đời mình được nữa. Sau khi chết, số phận của mỗi
người được cố định cách chung
quyết và vĩnh viễn đời đời.
Công
Đồng chung Lyon II, năm 1274, định tín
rằng : linh hồn, sau khi chết lìa xác, giữ lấy
tình trạng công chính hay tội lỗi mà họ đã
lập được khi còn sống trong thân xác thời
trần gian, chứ không còn thay đổi được
nữa (Denzinger, số 464).
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công giáo
số 1021tt dạy: “Ngay khi lìa khỏi xác, linh hồn
bất tử sẽ chịu phán xét riêng để
được thưởng hay bị phạt đời
đời ; tùy theo đời sống của mình (đã)
tương quan (thế nào) với Đức Kitô (khi còn
sống mà) linh hồn : 1) hoặc phải trải qua
một cuộc thanh luyện,
2) hoặc được
hưởng phúc trên trời ;
3) hoặc sa địa ngục vĩnh
viễn”.
Các
Kitô hữu chúng ta cũng kinh nghiệm tất cả
những thử thách và cám dỗ, những ngọt bùi và chua
cay, những cái tốt cũng như những cái xấu
của cuộc đời như ai, duy chỉ khác là một mặt vẫn
phải nỗ lực như thể sự cứu
độ hoàn toàn tùy thuộc nơi mình, nhưng mặt khác lại đặt niềm tin cứu
độ vào Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế,
như thể sự cứu độ hoàn toàn tùy thuộc
ở nơi Chúa, vì Thánh Kinh đã công bố chân lý quan
trọng này :
"Ngoài Đức Giêsu ra, không ai đem lại Ơn
Cứu Độ ; vì dưới gầm trời này, không có
một Danh (tức là người) nào khác đã
được ban cho nhân loại, để chúng ta phải
nhờ vào Danh đó mà được cứu độ.”
(Cv 4.12)
Trước tất
cả những sự đời tốt có xấu có, và
trước những yếu đuối, hèn kém của
bản thân, người Kitô hữu được Thánh Kinh
cho biết rõ ràng, con người cho dù tự mình có nỗ
lực đến mấy, cũng không thể nào thắng
được những dục vọng, ích kỷ, kiêu
ngạo của mình, không thể cưỡng lại
những cám dỗ của ma quỉ, những lôi cuốn
của thế gian bày đặt ra… Thánh Phaolô đã phải
thú nhận :
“Tôi
biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa
là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự
thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự
thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không
muốn, tôi lại cứ làm.” (Rm 7.18-19). Bản
thân chưa tự làm chủ được, chưa
thắng được, thì sức đâu mà muốn cải thiện
tình trạng tham sân si trong cõi trần gian đầy dối
trá và bất công này. Giống như ta không có cánh như chim
làm sao bay lên khoảng không trung mênh mông, không có mang của cá
làm sao có thể bơi lội trong đại dương
ngàn trùng…
Bởi vì Thánh Kinh cho ta
biết điều này : Từ sau Ađam-Eva nguyên tổ
loài người nghe theo Satan mà phạm tội, thì
“Tất cả thế gian
đều nằm dưới ách thống trị của ác
thần.” (1 Ga 5.19)
Đã
đành là ta không được phủ nhận những
nỗ lực trong mọi phương diện của nhân
loại, nhờ những kỹ thuật và khoa học tân
tiến, để cải thiện bản thân và
đời sống cũng như làm thăng tiến xã
hội, nhưng Thánh Kinh còn mặc khải điều này
nữa mà nhân loại chúng ta đã quên hay không thèm để
ý, để cứ tiếp tục nuôi mộng tưởng
là có thể tự sức thắng mình, hoàn thiện mình, và
cải tạo xã hội, vốn là một việc quá
sức loài người, đang khi ngay cả những
cử động tầm thường ta cũng không
thể tự mình làm được nếu không có Thiên Chúa
giúp :
"Vì Người
ban cho mọi loài sự sống, hơi thở và mọi
sự… Thật vậy, chính ở nơi Thiên Chúa mà chúng ta
sống, cử động, và hiện hữu…" (Cv 17.25,28)
Thiên Chúa
đã cho phép tất cả những gian truân, thử thách
trần gian ấy xảy ra như vậy, cốt để loài
người phải đi đến chỗ nhận chân
sự yếu đuối bất lực của mình không
thể tự cứu mình, mà đặt niềm tin vào Chúa
Giêsu để được ơn cứu độ, và
nhờ đó, họ có được niềm hy vọng
hằng sống, như Thánh kinh nói :
“Vì chúng ta tin,
nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng
ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện
nay ; chúng ta lại còn tự hào về niềm
hy vọng được hưởng vinh quang
của Thiên Chúa.” (Rm 5.2)
Chúng ta, người Kitô hữu, hãy như những trẻ
nhỏ, lắng nghe được tiếng gọi của
Người Cha từ cõi vô biên, và vô cùng mừng rỡ,
hạnh phúc mà nắm bắt được tần số
của Niềm Hy Vọng Cha đã ban. Một Người
Cha luôn yêu thương, kiên nhẫn mạc khải cho các con
của mình một Con Đường Sống. Đó là Chúa
Giêsu, Đấng Cứu Thế, Đấng Giải Thoát.
Hơn nữa, Người còn
hứa ban cho ta Thánh Thần làm bảo
chứng cho hạnh phúc vĩnh cửu, mà ta sẽ
được hưởng, khi ở đời này ta tin
vào Đấng Cứu Độ. Ta nghe như niềm hân
hoan reo vui khi đọc đoạn Thánh thư sau :
"Trong
Đức Kitô cả anh em nữa, … một khi đã tin,
anh em được đóng ấn Thánh Thần,
Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo
chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày
dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc,
để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa." (Ep 1.13-14)
Như vậy, hiện nay điều quan trọng
nhất – như đã nói trên đầu bài – là TIN, tin
với trọn vẹn trái tim mình để đời
mình luôn sống gắn bó mật thiết với
Đấng Cứu Thế, đã yêu thương, đã thí
mạng để cứu thoát mình khỏi cái chết do tội
lỗi mang lại và được sống mà hưởng
vinh quang. Than ôi ! Ta đã mất bao thời gian, bao công lao
giữ luật thay vì đến gần Chúa với trọn
niềm tin yêu. Hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu bảo :
"Việc Thiên Chúa
muốn (cho các ông làm,) là TIN vào Đấng Người
đã sai đến." (Ga
6.29)
ÜÜÜÜÜ
Trong Cựu Ước, trước
nạn dân chúng thờ bái tà thần ngẫu tượng,
Thiên Chúa cũng đã tuyên bố :
“Chính Ta, chính Ta đây là ĐỨC CHÚA,
ngoài Ta ra, chẳng có ai cứu
độ.” (Is 43.11)
“Ngoài Ta ra, không có thần nào
nữa,
chẳng có thần công minh cứu độ,
ngoại trừ Ta.” (Is 45.21)
|