Vạn tuế Vua Giêsu.
Cách đây hai ngàn năm, nước Do
Thái, một tiểu quốc bên bờ Địa Trung
Hải, đã ngậm đắng nuốt cay, sống
dưới chế độ hà khắc của đế
quốc Rôma. Tại Galilê, miền bắc Do Thái, những
người đế quốc đã đặt Hêrôđê,
một con người vô lương tâm làm vua, để
tận diệt vương tộc Đavid, còn ở
Giuđê, miền nam Do Thái, Rôma trực tiếp đô
hộ, dưới sự thống trị của tổng
trấn Philatô và quân đội của ông. Cũng như
trong các nước bị chiếm đóng, đô hộ,
người Do Thái thời bấy giờ chia ra nhiều phe
đảng chống đối nhau và kình địch nhau,
cụ thể là hai đảng Sađốc và Pharisêu.
Đảng Sađốc thì cộng tác với quân
đội chiếm đóng, ngược lại,
đảng Pharisêu tha thiết với nền độc
lập quốc gia, họ sẵn sàng hy sinh xương máu
để bảo vệ tổ quốc và đẩy lui
đế quốc, họ luôn nhắc nhở cho dân chúng
niềm hy vọng ngày giải phóng mà Thiên Chúa đã hứa.
Trong khi đất nước đang
bị phân hóa như vậy thì Chúa Giêsu xuất hiện
với những quyền lực vô song, Ngài đã làm
những việc mà không ai có thể làm được.
Trước những sự kiện đó, người Do
Thái hồ hởi phấn khởi tin chắc Ngài là vị
cứu tinh Thiên Chúa gửi đến và ngày giải phóng
đã gần. Vì thế, ngày lễ lá, dân chúng rầm rộ
đón rước Chúa vào thành đô như một vị
đại tướng thắng trận trở về lên
ngôi. Họ lũ lượt kéo nhau đi như biểu
tình, miệng ca hát: “Vạn tuế con vua Đavid”. Như
vậy, dân chúng đã nhận ra Ngài là vị vua Thiên Sai khiêm
tốn, ngồi trên lưng lừa, đúng như ngôn
sứ Dacaria đã loan báo năm thế kỷ trước.
Họ reo vang hô lớn: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa
mà đến, Người chính là vua”. Hôm ấy Chúa Giêsu
không cải chính, cứ để họ tiếp tục
tung hô như vậy.
Nhưng dân Do Thái đã thất vọng,
vì Chúa Giêsu từ chối vương quyền họ trao cho
Ngài, từ chối việc giải phóng dân Do Thái khỏi
ách đô hộ của Rôma. Ngài tuyên bố Ngài là
Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa, là vị cứu tinh, là
Vua Do Thái, nhưng không như người Do Thái quan
niệm. Thời giờ đã điểm, Ngài không còn
giấu diếm như trước nữa, Ngài công khai
chấp nhận và tuyên bố Ngài là Đấng Cứu Thế.
Thế là việc gì phải đến đã đến:
ngày thứ Năm, cũng trong tuần lễ đó, chính
những người đã reo mừng tung hô Ngài trước
đây, bây giờ lại xuống đường biểu
tình, điệu Ngài đến nhà cầm quyền
để tố cáo giết Ngài. Họ điệu Ngài
đến tổng trấn Philatô, Philatô ra gặp họ,
Chúa Giêsu và Philatô đối diện nhau. Philatô quay về
phía đám đông đang gào thét và hỏi họ: “Các
ngươi tố cáo người này về tội gì?”.
Nếu họ tố cáo Chúa là đã nói xúc phạm vì tự
xưng là Thiên Chúa, thì Philatô chỉ mỉm cười
bỏ qua, nhưng lời tố cáo của họ là “Chúa
đã xúi giục dân nổi loạn, cấm nộp thuế
cho Xêda, và tự xưng mình là vua”. Nghe vậy, Philatô hỏi
Chúa: “Ông là vua à?”. Chúa trả lời: “Ông nói đúng, tôi là
vua”. Nhưng Ngài nói thêm ngay: “Vương quyền của tôi
không đến từ thế gian này”, vương quyền
ấy chủ yếu hệ tại ở việc “làm
chứng cho sự thật”. Đây là điều Philatô không
thể nào hiểu được.
Đúng vậy, Chúa Giêsu không phải là
vua Do Thái theo nghĩa chính trị để tranh giành
quyền thế với hoàng đế Xêda, Ngài là vua theo
nghĩa Ngài là Đấng chăn chiên dẫn người
ta vào sự thật của Thiên Chúa, Ngài đến làm
chứng cho sự thật, ai thuộc về Ngài thì nghe
tiếng Ngài, Ngài là vua thật, vì Ngài dẫn người ta
đến sự sống thật. Nói khác đi, Chúa Giêsu
đến trần gian không phải với sứ mạng
giải phóng dân Do Thái và nhân loại khỏi ách nô lệ
của đế quốc, Ngài cũng không đến
để giải thoát chúng ta khỏi đói khát và chiến
tranh. Tất cả sứ mạng của Ngài là giải
phóng chúng ta khỏi tội lỗi. Vì thế, Chúa Giêsu đã
đi vào tận đáy thân phận con người
để bộc lộ vương quyền thật
của Ngài, Ngài chỉ muốn cai trị tâm hồn
người ta. Do đó, tất cả những ai muốn
được giải thoát khỏi tội lỗi, tin theo
Ngài và sống theo những lời Ngài dạy, họ sẽ
là thần dân của Ngài và được hội nhập
vào nước của Ngài.
Trong thời đại này, chúng ta tuyên
xưng Chúa Giêsu là vua vẫn là một điều hợp
thời, hợp tình, hợp lý. Vấn đề là chúng ta
hiểu đúng nội dung và bản chất vương
quyền của Chúa. Ngài đến trần gian để
làm chứng cho sự thật và đưa chúng ta vào sự
thật. Sự thật đây là ơn cứu rỗi và
hạnh phúc. Như vậy, tất cả chúng ta hãy cùng nhau
vung tay lên hô lớn: “Vạn tuế Chúa Giêsu là vua” như
người đàn bà trong câu truyện sau: Đức giám mục thành Pam-lo-ra kể lại
rằng: người ta mới mang về đây thi thể
của một chiến sĩ đã chết vì Chúa và vì
tổ quốc. Một quả lựu đạn nổ tung
làm cho xác người chiến sĩ đó nát bấy, các
bạn bè nhận ra xác đó nên đem về chôn cất
tử tế, trước khi chôn, bà mẹ của
người chiến sĩ đó xin mở quan tài ra, bà ta có
một người con đầu lòng cũng chết
như vậy, khi mở quan tài ra, bà chỉ thấy có
một đống thịt nát và một cánh tay còn nguyên, bà
cầm cánh tay đó đưa lên cao và nói: “Anh con
trước khi chết đã kêu lên: “Vạn tuế Chúa
Giêsu là vua”, nếu con chết mà chưa kịp kêu lên như
vậy, thì bây giờ con hãy kêu lên với mẹ”. Nói xong, bà giơ cánh tay con
mình lên và hô ba lần: “Vạn tuế Chúa Giêsu là vua”.
Xin Chúa cho chúng ta, dù trong hoàn cảnh nào,
chúng ta vẫn luôn xác tín Chúa Kitô là vua, Ngài luôn quan tâm
đến chúng ta là những thần dân yêu quý của Ngài,
Ngài sẽ trợ giúp chúng ta luôn đi trong sự thật và
sống trong sự thật của Ngài, với điều
kiện chúng ta phải luôn tin Ngài và đặt Ngài làm vua tâm
hồn và cuộc đời chúng ta.
Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là vua, thì chúng
ta là dân của Ngài. Chúng ta tôn xưng Chúa là vua sự
thật, thì chúng ta là dân sự thật của Ngài, chúng ta
phải làm sáng tỏ sự thật ấy. Có lẽ chúng ta
phải thú nhận: chúng ta chưa sống, chưa rao
giảng, chưa làm chứng cho sự thật cứu
độ. Bởi vì cuộc sống đầu tắt
mặt tối, đầy lo toan, vất vả, bon chen
dễ đẩy chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ
nhen, thấp hèn. Chúng ta không dễ nhường nhịn
nhau, hòa thuận với nhau, mà ngược lại, muốn
lấn lướt người, muốn được
phần hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều khi dùng
cả những thủ đoạn độc địa,
thô bỉ nữa… Chúng ta hãy nhớ: một người
sống trung thực, chân thành, bác ái, yêu thương
giữa một xã hội đầy dẫy những
lừa lọc, gian dối, ích kỷ, ti tiện… có lẽ
sẽ bị đánh giá là không giống ai, là người
lội ngược dòng nước, nhưng chính việc
lội ngược dòng, chính việc sống trung thực,
yêu thương lại là cách làm chứng cho Chúa, làm
chứng cho sự thật có ý nghĩa và giá trị
nhất.
|