BÀI
LỜI CHÚA 22
tình
gia tỘc, hỌ hàng
Trích sách Tô-by-a, ch.5tt
Ngày
ấy, ông Tô-bít sai con trai là Tô-by-a đến miền xa
đòi nợ. Tô-by-a và người bạn đường
vào làng Ê-ba-tan đến nhà ông bà Ra-ghen là chú thím.
Bước vào sân, họ gặp ông Ra-ghen đang ngồi chơi,
Tô-by-a cất tiếng chào. Hơi bỡ ngỡ, ông đáp
lễ và dẫn hai người vào nhà. Ông nói với vợ
là bà Eđ-na :
- Cậu thanh niên này sao mà giống
Tô-bít, anh tôi quá !
Bà
Eđ-na hỏi họ :
- Anh em có biết Tô-bít,
người bà con của chúng tôi không ?
Tô-by-a
nhanh nhảu nói :
- Có chứ, chính ông ấy là cha
của cháu !
Nghe
vậy, ông Ra-ghen vui mừng, tiến lại ôm lấy
cậu, áp má vừa hôn, vừa khóc :
- Xin Chúa chúc lành cho cháu. Ta là Ra-ghen,
chú họ của cháu. Cháu là con của một người
cha tốt lành, đức độ. Khốn nỗi,
một người nhân nghĩa, hay làm việc lành như
vậy, mà lại bị mù lòa.
Ông
Ra-ghen có cô con gái độc nhất, rất xinh đẹp
và đảm đang - tên là Sa-ra. Thoạt thấy cô Sa-ra,
Tô-by-a đã đem lòng quí mến. Đến sau, lại
được biết nàng là gái chưa chồng. Chiếu
theo luật Môi-sen, chàng là người bà con gần nhất
có quyền cưới cô hơn ai khác. Chàng đâm ra yêu nàng
và tâm hồn chàng gắn bó với nàng.
Khi
họ làm cơm thết đãi, mới ngồi vào bàn,
Tô-by-a đã nhờ bạn ngỏ lời xin gả Sa-ra cho
chàng. Ông Ra-ghen tươi cười đáp :
- Cháu cứ ăn uống đi
đã, ngoài cháu ra, không ai có quyền lấy Sa-ra, con của
chú. Nhưng...
Nói
đến đây, ông ngập ngừng, vẻ mặt
buồn bã... Tô-by-a hồi hộp chờ đợi…
- Nói gần nói xa, chẳng qua nói
thật. Chú đau lòng phải tỏ cho cháu biết là :
trước khi cháu tới đây, chú đã gả nó lần
lượt đến 7 người chồng. Nhưng không
hiểu sao, 7 người đều chết ngay đêm
động phòng ! Thôi, cháu cứ ăn uống đi,
để Chúa sẽ xếp đặt mọi sự !
- Cháu sẽ không ăn uống gì,
bao lâu chú còn trù trừ về việc của cháu !
Ra-ghen
mím môi đáp, sau một lúc suy nghĩ :
- Thôi được ! Chiếu theo
phán quyết của luật Môi-sen, ta ban nó cho cháu đó. Ý
Chúa muốn như vậy. Cầu Chúa trên trời ban cho hai
con mọi bề xuôi thuận đêm nay, và đổ
xuống cho hai con lòng thương xót và bình an.
Gọi
nàng Sa-ra lại, ông cầm tay nàng đặt vào tay Tô-by-a.
Ông gọi vợ lấy giấy viết tờ hôn thú.
Đâu vào đấy, họ bắt đầu ăn
tiệc.
Chiều
tối, Tô-by-a vào phòng, nhớ lời dặn của
người bạn dẫn đường - chính là thiên
thần Ra-pha-en - chàng lấy gan và tim con cá bắt
được ở sông lúc đi dọc đường,
đặt lên lò than đốt cho khói xông lên, xua
đuổi tà ma đã quậy phá Sa-ra... Lúc ấy, chàng
mời Sa-ra cùng quì gối cầu nguyện, xin Thiên Chúa
thương xót và phù hộ cho hai vợ chồng
được an toàn, hạnh phúc đến tuổi già.
Cùng
lúc đó, ông bà Ra-ghen cũng lén chỗi dậy, gọi gia
nhân đi đào huyệt sẵn. Ông nói :
- Mong sao nó đừng bị
giết như 7 chàng rể
trước, không thì ta thành bia cho người đời
mai mỉa.
Rồi ông bảo bà sai tớ gái lén ngó
vào phòng xem chàng rể còn sống không. Đứa tớ gái
lén ngó vào phòng, thấy cặp vợ chồng đang
ngủ ngon giấc an lành bên nhau. Biết vậy, ông bà
cất tiếng chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa. Hôm sau,
ông vui mừng mở tiệc lớn suốt hai tuần
lễ.
* Đó
là Lời Chúa ! - Tạ ơn Chúa !
Suy niệm Lời Chúa
Qua câu
chuyện Kinh Thánh vừa kể, được thấy rõ
tình họ hàng thân thiết gắn bó nhau. Hai gia đình ông
Tô-bít và Ra-ghen, tuy người bị lưu đầy sang
xứ lạ, kẻ được thong dong nơi quê nhà,
nhưng hằng thương nhớ nhau. Dù đường
xá xa xôi, nhưng nghĩ tình họ hàng, cậu Tôbya cũng
cố gắng rẽ vào thăm hỏi, và biết đâu
để thưởng cho lòng thảo kính đó, Thiên Chúa
đã ban cho chàng một món quà quí báu : cô Sa-ra xinh đẹp
và đảm đang làm vợ chàng. Luật Môsê thời
ấy làm cho tình họ hàng thêm chặt : anh em họ
phải lấy nhau để giữ được dòng
giống, giữ lấy đức tin cho con cháu và bảo
vệ tài sản khỏi lọt vào tay người ngoài.
1/ Nhìn vào xã hội các tổ
phụ thời ấy - mà Kinh Thánh cho ta biết - con cái
không chỉ sống với cha mẹ, mà còn cả với
ông bà, chú bác, cô dì... Lòng trọng kính, tình thương
mến của chúng phải vượt quá giới hạn
hẹp hòi của gia đình, mà đi tới cả họ
hàng, bà con. Chúng phải tập ngay từ nhỏ biết
chào hỏi người trong họ hàng cách lễ phép,
biết đi thăm viếng họ, chia vui sẻ
buồn, dự các dịp lễ hoặc mừng kỷ niệm,
biết báo tin cho những bà con ở xa, biết giúp
đỡ những người trong hoàn cảnh nghèo khó,
hoạn nạn, nhất là những người già cả,
đau ốm...
2/ Trong hoàn cảnh sinh sống
của ta hiện thời, sự liên lạc và đoàn
kết trở nên rất khó khăn : nào chiến tranh
loạn lạc, hoặc do hậu quả của chiến
tranh, bà con, họ hàng mỗi người đi mỗi
nơi làm ăn, lập nghiệp, rồi đường
xá, tàu bè khó khăn, đời sống đắt
đỏ, kinh tế eo hẹp, trừ một số
nhỏ làm ăn có tiền của, còn đa số chật
vật kiếm cơm hàng ngày, không còn thời giờ nhàn
rỗi : tất cả những khó khăn kinh tế và
vật chất ấy làm cho người ta ngại
đến thăm viếng nhau, sợ gây gánh nặng cho
nhau, và cứ thế, tình gia tộc càng ngày càng lợt
lạt dần.
Do
đó, tình thân
thiết với họ hàng của mỗi gia
đình có thay đổi : tại gia đình này,
người ta chỉ nói đến họ hàng cách khinh
bỉ ; còn tại gia đình kia, họ hàng được
quí trọng, biểu dương, như gương mẫu
đức hạnh hay gương thành công trên
đường đời, làm cả họ thơm lây.
Tại nơi này, trẻ con thấy họ hàng đôi bên
kình địch nhau ; tại nơi khác, trẻ con lại
được thấy dẫn giải một lòng tôn trọng,
quí mến và săn sóc ông bà nội, ngoại... Có nơi, con
cái thấy ông bà bị đối xử cách lạnh
nhạt, vô tình, thậm chí bị đay nghiến mắng
nhiếc tàn tệ...
Vậy
ta hãy tìm xem ý Chúa muốn sao ?
3/ Thiên Chúa đã muốn ta sinh ra không
chỉ có cha, có mẹ, mà còn có họ hàng, chú bác, cô dì, ông bà
nội ngoại, anh em thúc bá, vv... Ta bắt rễ vào trong
gia đình, mà rễ còn ăn lan xa và sâu vào cả họ
hàng, tông tộc. Nói không ngoa, cả tông tộc nuôi
dưỡng và hun đúc ta thành người. Ta không thể
bỏ qua, mạnh ai nấy sống, không đếm kể
gì đến dòng dõi, tông tộc : họ có ảnh
hưởng đến số phận đời ta, trên
bản ngã và cá tính của ta. Vì thế, tục ngữ
xưa nay có câu : “Con nhà tông, không giống lông cũng
giống cánh” - “Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem
giống”. Kinh Thánh nói rằng : vị vua anh minh, xuất
từ dòng dõi Đavít - có ý nói về Chúa Cứu Thế -
sẽ là vị vua được hun đúc bằng mọi
đức tính của các tổ tiên : Thần Khí khôn ngoan và
trí tuệ như Salômôn, thần khí mưu lược và anh
dũng như Đavít, thần khí đạo đức và
kính sợ Thiên Chúa như các tổ phụ, các tiên tri... (x. Ys
11.1-5).
Cho nên, cha mẹ và các nhà giáo
dục phải chấn hưng lại tình gia tộc, vun
trồng liên hệ họ hàng bằng lời nói, hành
động, khi có cơ hội dạy vẽ cho con cái
biết giữ những liên lạc tốt đẹp
với họ hàng: lòng yêu thương, sự kính trọng,
tình thân ái, sự tương trợ, sự tín nhiệm vào
nhau, giúp đỡ nhau trong lúc khốn khó, lúc hoạn
nạn, ốm đau, trong những dịp vui buồn, tang
chế, cưới hỏi, sinh đẻ, biết đi
lại thăm viếng, chia vui sẻ buồn, như
Đức Mẹ đi thăm và giúp đỡ bà Ê-li-sa-bet,
đang mang thai lúc tuổi già mệt nhọc... (Lc 1.39tt).
Xin
đề nghị :
Một
trong những dịp tốt để vun quén tình thân ái trong
gia tộc là ngày lễ giỗ. Mỗi năm một
lần, cả gia tộc họp về nhà của tộc
trưởng : trước hết, cùng chung dự Thánh
Lễ giỗ tại nhà thờ, sau đó về nhà, tất
cả dự bữa cỗ để chung niềm vui sum
họp : biết bao tin tức vui buồn, lúc ấy
người ta kể cho nhau nghe... Các con cháu nhỏ
được nhận mặt chú bác, cô dì và anh em họ
hàng..., chúng sẽ nhận thấy chúng là thành phần
của một tập thể mạnh mẽ, lớn
rộng..., hẳn chúng được hãnh diện và
cảm thấy được bảo vệ, che chở...
Uy tín của cả một gia tộc như thế, có
ảnh hưởng rất lớn trên cách ăn ở
của chúng. Tục ngữ có câu : “Sẩy cha còn chú, sẩy
mẹ bú dì” - cha mất đi, mẹ góa, nhiều khi dạy
bảo con không được, thì nhờ có chú bác, cô dì
bảo ban, khuyên lơn, chúng sẽ kính nể mà vâng nghe...
Buổi
lễ giỗ ấy cũng là lúc mà nếu có vấn
đề gì trong gia tộc, người ta sẽ đem ra
bàn bạc và giải quyết. Người Công giáo
thường bị người lương chê là theo
đạo bỏ ông bà, bỏ tổ tiên, lơ là với
gia tộc. Thực ra, ta không đáng bị chê trách như
thế, song xét kỹ, cũng có phần nào đúng. Ta
cứ lấy nê đã xin lễ riêng cầu cho linh hồn
ông bà, cha mẹ và các tiên nhân, hoặc hàng ngày vẫn cầu
nguyện cho linh hồn các ngài..., để mà gạt
bỏ những tập quán, những tục lệ tốt
đẹp bên ngoài - tỉ như cuộc lễ giỗ
tại nhà trưởng tộc nói trên - rất cần
thiết để nuôi dưỡng tình thân ái trong gia
tộc ; vì bên trong cần biểu lộ ra bên ngoài, bên ngoài
cần nâng đỡ bởi tâm tình bên trong, cả hai
bổ túc cho nhau ; bởi chúng ta vừa là tinh thần mà
lại vừa có thể xác : hữu ư trung, xuất hình
ư ngoại ! Đạo công giáo cần phải trở
về những tục lệ tốt của dân tộc.
Chiều nay, làm giờ đền tạ này, gia
đình chúng ta xin Chúa tha thứ các lỗi phạm
đến tinh thần gia tộc, để nhờ Lời
Chúa, ta ý thức hơn, từ nay sẽ chỉnh
đốn cho hợp với ý Chúa.
Tích truyện
(Trích
hồi ký của một linh mục)
Hồi
ấy, tôi còn nhỏ, chừng 11 tuổi ; như mọi
đứa trẻ khác, tôi rất mong Tết đến. Tết
thì được mặc áo mới, được
mừng tuổi, những đồng xu mới vàng óng,
đẹp ghê đi ! Có tiền là mua pháo đốt chơi
: nào pháo đùng, pháo giây, pháo chuột, pháo tép, pháo xiết...
Châm ngòi, rồi tung pháo vào giữa tụi con gái, làm chúng
bịt tai vừa chạy, vừa la. Vui thật !
Tết
còn được ăn cỗ : những bữa cỗ ngon
lành, đủ thứ của ngon vật lạ ngày
thường ít thấy..., rồi được ăn bánh
chưng xanh, ăn giò thủ... Ông tôi lại thường
hay chế rượu mùi : rượu đào, rượu
cúc..., uống vào ngọt lừ, thơm phức mà không say.
Tết còn là dịp về quê ngoại thăm họ hàng.
Trên con đường vào làng, khí trời còn lạnh,
thường khi có mưa phùn bay lất phất ; nhưng
khi vào đến nhà, thật là ấm áp : những câu chào
nhau và chúc mừng năm mới tíu tít, vang lên ấm cả
lòng. Các cháu nhỏ như tôi được xoa đầu,
mừng tuổi dăm ba xu “cho cháu ăn quà, chóng lớn,
học hành thi đỗ...”
Nhưng
trong ngày đầu Xuân, cái làm tôi nhớ không bao giờ quên,
tuy đã hơn 40 năm rồi, đó là cứ mùng một,
tại nhà ông bà nội, tất cả các bác, các cô chú, thím dì,
anh em họ hàng đều từ khắp nơi đổ
về. Sau Thánh Lễ chung ở nhà thờ xứ, về
đến tư gia, trước hết, là thắp đèn
nến bàn thờ lên, cả gia tộc cùng nhau đọc
kinh thờ lạy Chúa và kính Đức Mẹ, dâng cả
năm mới cho Chúa và xin Chúa chúc lành, ban ơn phù hộ.
Ông bà
tôi - các cụ lúc ấy khoảng hơn 60 - ngồi trên giường
kê trước bàn thờ, chung quanh là chú bác, cô dì, anh em
họ hàng tất cả đều hướng về bàn
thờ. Tôi còn nhỏ, nên đọc kinh thì ít, mà nhìn ngó thì
nhiều... Có lúc nhìn lên bàn thờ đèn nến sáng
trưng, ảnh Chúa thật uy nghi mà nhân từ, cạnh bàn
thờ là hai chậu quất và hai chậu cúc vàng... Nhìn
đến mẹ tôi, thấy bà đang đọc kinh
lớn tiếng, mắt đăm đăm hướng
về bàn thờ : mẹ tôi có vẻ sùng kính lạ
thường, có lúc không biết vì tưởng nhớ chuyện
gì buồn, mẹ tôi lại ràn rụa nước
mắt... Kinh nguyện xong xuôi, cả gia tộc mời ông
bà ngồi xuống hai chiếc ghế gụ, có đệm
bông, rồi xúm lại chúc tết. Anh cả tôi, là cháu
đích tôn, đại diện cả gia tộc đọc
bài chúc tết anh đã hì hục dọn cả tuần
lễ trước. Dứt bài, đốt pháo nổ vang.
Xong đến các bác, cô chú, thím dì đến chúc mừng ông
bà. Khi đến phiên chúng tôi, được mừng
tuổi bằng những đồng tiền mới...
Thế
rồi, đang khi đợi đến trưa ăn
cỗ, chúng tôi chạy ra sân hoặc ra phố chơi,
đốt pháo, hoặc ở trong nhà rủ nhau rút bất,
đánh tam cúc... Thật là êm đềm !
Tưởng nhớ lại kỷ
niệm xưa, mà lòng còn bùi ngùi nhớ tiếc... Tình gia
tộc thật là đậm đà ! Chúng tôi được
hun đúc trong tình gia tộc ấy. Lớn lên, mỗi
người mỗi phương trời, còn tôi
được ơn gọi làm linh mục, nhưng tình
tự gia tộc không bao giờ phai. Nó là sức nâng
đỡ cho tôi trong cuộc đời, là niềm an
ủi cho tôi lúc buồn khổ. Đến nay, đã hơn
40 năm, những khuôn mặt thân ái ấy vẫn còn
phảng phất trong trí nhớ, ấp ủ trong trái tim tôi
: trong số đó, có người còn sống, có
người đã ra đi, có người đã nằm
xuống yên giấc ngàn thu. Nhưng với niềm hi
vọng sống lại mà Chúa Kitô phục sinh ban cho, chúng tôi
mong sau này chắc chắn sẽ được sum họp
lại với nhau trên Nước Hằng Sống, nơi
mùa Xuân không bao giờ tàn. Y
|