BÀI
LỜI CHÚA 20
TÌnh
anh chỊ em ruỘt thỊt
Trích sách Sáng thế, ch.37 và tiếp
Ông Ya-cóp
có 12 người con. Ông thương cậu Giuse hơn
cả,vì cậu là con lúc tuổi già. Ông may cho cậu
một chiếc áo đẹp súng sính. Thấy em
được cha thương, các anh đâm ghen ghét, không
thể nói một lời hòa nhã với cậu. Một hôm,
ông Ya-cóp sai Giuse đi đưa cơm cho các anh chăn chiên
ngoài đồng. Thấy cậu từ xa tiến
đến, mấy người anh lập mưu giết
cậu. Nhưng anh cả là Ru-ben can ngăn:
- Đừng
đổ máu nó, nó cũng là máu mủ ruột thịt
với mình. Hãy vứt nó vào giếng cạn kia !
Khi
Giuse đến, họ túm lấy, lột chiếc áo
đẹp và vứt cậu xuống giếng cạn, (xem hình), rồi
họ ngồi xuống ăn cơm. Một lúc, có đoàn
lái buôn tải hàng sang bán bên Ai cập. Yu-đa bàn với anh
em :
- Giết nó là em cùng máu thịt với
mình là không tốt, đàng khác nào có lợi gì ? Chi bằng ta
bán quách nó cho bọn lái buôn kia.
Tán
thành, họ kéo Giuse lên khỏi giếng, bán cho đoàn lái
buôn với giá 20 lạng bạc. Bấy giờ, họ
lấy áo của Giuse, nhúng vào máu một con dê, đem về
cho cha và nói :
- Chúng tôi gặp thấy cái này. Cha
xem có phải là áo của con cha không ?
Ya-cóp
cầm lấy áo nhuốm máu và xem :
- Thực là áo con ta, thú dữ
đã ăn thịt nó rồi !
Và ông
xé áo mình ra, chịu tang con, khóc lóc thương nhớ lâu ngày.
Ông nói :
- Chắc ta sẽ chết theo con
ta mất thôi !
Phần
cậu Giuse, sang đến Ai cập, bị đoàn lái buôn
đem bán cho quan thái giám Po-ti-pha. Ông rất tin dùng cậu...
Từ đó, cuộc đời cậu lúc thăng, lúc
trầm. Dù trải qua nhiều gian lao, song cậu phó thác và
tin cậy vào Chúa, nên Chúa đã hộ phù cậu
được nhiều may mắn. Nhờ giải
được điềm mộng cho vua, cậu làm
đến chức Tể tướng tại triều
đình, lo việc tài chính và lương thực cho cả
nước. Xảy ra có nạn hạn hán lớn ròng rã 7
năm trời. Nước Ai cập không hề bị
chết đói, vì nhờ tài khéo của Giuse, đã tích
trữ những kho lương thực cho cả
nước. Nước Pha-lê-tin cũng bị nạn
hạn hán và đói khổ vô cùng. Ông Ya-cóp sai các con xuống
Ai cập mua lúa. Vào gặp quan Tể tướng, xin mua
lúa, mấy anh em đâu có ngờ đó chính là Giuse. Riêng
Giuse, trái lại, nhận ra anh em mình, song ông làm lơ,
tỏ bộ không biết. Mãi sau, dò hỏi đích xác là cha
già còn sống, ông mới tỏ mình ra cho anh em ông :
- Tôi là Giuse đây, các anh đã bán
sang Ai cập, nhưng Thiên Chúa đã an bài để tôi sang
đây trước để ngày nay cứu sống
được cả gia đình.
Nghe thế, anh em ông hết hồn và
cầm chắc sẽ bị Giuse báo thù. Nhưng nghĩ tình
anh em, Giuse đã tha thứ cho họ, còn sai quân về
tận quê hương đón cha già sang Ai cập, để
hưởng phú quí. Đối với anh em, ông cũng
cấp cho họ đất ở Ai cập để làm
ăn.
* Đó
là Lời Chúa ! - Tạ ơn Chúa !
Suy niệm Lời Chúa
Có
biết bao anh em, chị em ruột thịt không biết
thương nhau, lại cãi cọ, bất hòa và ganh tị
vì quyền lợi như các anh của ông Giuse. Vì sao có tình
trạng đáng buồn ấy ?
Thưa
: có nhiều duyên cớ, nhưng tóm lại cũng do từ
nhỏ, các trẻ đã không được dạy cho
hiểu tình anh em ruột thịt là quí báu chừng nào, và
phải làm gì để bảo vệ nó. Điều ấy
như sau :
1/ Không kể cha mẹ ở trên
được coi như đại diện Thiên Chúa, sinh
thành, dưỡng dục ; thì dưới có anh chị em
ruột, là những người thân cận nhau nhất : Đó là xã hội nhỏ bé
đầu tiên của đứa trẻ. Trong
xã hội cỡ bỏ túi đó, anh em, chị em
được liên kết với nhau bằng giây máu
mủ, và được bao bọc bởi tình thương
của cha mẹ. Chúng chơi với nhau, học hành, làm
việc với nhau, chung một mâm cơm, chung niềm vui
cũng như nỗi buồn, cùng dự những ngày
lễ gia đình, cùng đọc kinh tối sáng, cũng
đi dâng Thánh Lễ... Chúng cảm thấy chung
được cuộc sống, chung số phận.
Đáng tiếc cho nhà nào chỉ có con một, đứa
trẻ sẽ cảm thấy trống vắng, buồn
tẻ, nó không có bạn vui đùa, không có anh em để lo
lắng, săn sóc, để kể chuyện cho nhau nghe,
để học hỏi nhau, khuyên bảo nhau, sửa
chữa tính xấu cho nhau, đứa lớn bênh vực,
dẫn dắt đứa bé, giúp nhau trở nên người
tốt hơn. Rồi đến lúc lớn khôn, cùng nhau bàn
bạc, dự tính chuyện này chuyện nọ, khuyến
khích nhau học hành, thi cử, hay làm nghề nghiệp...
Quả
thật, chung sống giữa tình anh em như thế là
một ơn huệ quí giá vô ngần cho một con
người.
2/ Hưởng được tình
thương và mọi lợi ích, thì cuộc chung sống
với anh em cũng đặt ra những bổn phận phải thi hành.
Nói đến bổn phận, tức là muốn nói
đời sống chung giữa anh em với nhau không
phải là chuyện dễ dàng. Nó đòi nhiều hi sinh,
cố gắng. Nhưng những bổn phận ấy
sẽ như rào cản, bảo vệ không cho tính xấu và
sự ích kỷ của mỗi người làm sứt
mẻ và nứt rạn khối đoàn kết và tình
thương giữa anh em, để rồi đi
đến xâu xé, thù hận.
Sau
đây, phác sơ vài bổn phận :
a/ Bổn
phận trước hết là tôn trọng cá tính, tính tình
riêng và quyền lợi của mỗi người : Điều này tập cho mỗi
đứa trẻ biết nhẫn nhịn, biết
nhượng bộ, cho dù thấy mình đúng, mình có lý, có quyền.
Mỗi người có quyền lợi riêng của họ,
nên tự nhiên, người nào cũng có xu hướng
chỉ nghĩ đến mình, bỏ mặc người
khác, hoặc tệ hơn, chà đạp quyền lợi
kẻ khác, hay lợi dụng kẻ khác để làm
lợi cho mình. Nếu trong anh em ruột, ai cũng chiều
theo xu hướng đó, trong gia đình sẽ xảy ra
tranh chấp khốc liệt, đó là hỏa ngục,
chứ không còn là tổ ấm.
b/
Cần
tập chịu đựng các tính nết xấu,
khuyết điểm, lỡ lầm của nhau, như Chúa
dạy : “Mỗi người
hãy vác lấy gánh nặng của nhau” (Gl 6.1tt). Biết
mau làm hòa, biết bỏ qua lỗi lầm, đừng
chấp nhất, như ca dao tục ngữ có câu :
“Thương nhau thì một trăm chỗ lệch cũng
kê cho bằng”. Hơn thế, biết làm thỏa lòng anh em
trong các ao ước, hoặc đòi hỏi chính đáng
của họ.
c/ Tập
coi việc phục vụ là một niềm vui : Hãy sẵn sàng giúp đỡ,
phục vụ mà không đòi bên kia phải đền
đáp, theo kiểu hòn bấc ném đi, hòn chì ném lại.
Chúa dạy hãy làm đầy tớ cho nhau (Mt 20.26; 23.11), hãy
rửa chân cho nhau, hầu hạ nhau như Chúa đã làm
gương trước (Mt 20.28; Ga 13.14-15). Anh lớn giúp em
bé, người mạnh giúp kẻ yếu, đứa có tài,
học giỏi kềm bài cho đứa học kém. Công tác
phân chia theo năng lực : con trai việc khó, việc
nặng như chở củi, sửa xe, sửa điện,
chạy việc ; con gái làm việc nhỏ hơn, song
nhiều khi tỉ mỉ, công phu như may vá, làm bếp,
giặt giũ... Ngay giữa con trai với nhau cũng khác
tài : đứa giỏi tháo vát, đứa giỏi thể
thao, đứa giỏi toán, đứa kia lại thích
văn chương, v.v... ; tất cả anh em, chị em bổ
túc cho nhau, nâng đỡ nhau. Quả thật, câu Thánh
vịnh đã rất đúng : “Kìa
xem vui thú biết bao, anh em một nhà chung sống thật là
đềm êm !”
Còn thấy có những trường hợp anh hay
chị lớn hi sinh tình yêu và hạnh phúc riêng, không lập
gia đình, ở vậy giúp đỡ, nuôi nấng các em
ăn học đến thành tài. Tấm lòng hi sinh ấy
thật là cao quí ! Vậy họ hãy tận tụy giúp các em
học hành, làm gương sáng cho em, hướng dẫn
công việc cho chúng và nhất là làm cho chúng trở nên
tốt, nên một công dân ưu tú và xứng đáng một
người con Chúa hơn. Nhưng họ cũng hãy nhớ
rằng : việc chính trong giáo dục không phải là
chỉ trích, la mắng, cho bằng biết khai quang
đường lối cho chúng dễ dàng đi đến
sự tốt, sự lành, sự thiện.
Tích truyện
Rất
hiếm có gia đình nào mà tình chị em lại đậm
đà, tha thiết như gia đình của Thánh Nữ Têrêsa
Hài Đồng Giêsu. Ngay từ lúc Têrêsa vừa biết nói,
hễ lần nào mẹ hỏi :
- Con nghĩ gì đấy ?
Têrêsa
đều thưa :
- Con nghĩ đến chị Pô-lin
(Pauline).
Khi Têrêsa nghe
nói chị Pô-lin sẽ đi tu, dù chưa hiểu tu là gì, Têrêsa
cũng nhủ mình : “Tôi cũng đi tu !”. Nhưng nhất
là từ ngày mẹ em mất đi, thì Pô-lin thành một
người mẹ thứ hai. Hôm ấy, sau lễ an táng,
Têrêsa, nhìn Pô-lin cách yêu mến, rồi ngả đầu vào
ngực chị mà nói :
- Em nhận chị Pô-lin làm mẹ !
Ngoài
những săn sóc, âu yếm của một chị lớn
dành cho đứa em út, Pô-lin còn khéo uốn nắn tâm
hồn em nên đạo đức. Khi Têrêsa dọn mình
xưng tội lần đầu, Pô-lin bảo :
- Hỡi em Têrêsa, nay em đi xưng
tội, là em xưng với Chúa, chứ không phải xưng
với người nào của thế gian. Chúa Giêsu sẽ
lấy nước mắt của Ngài mà rửa sạch linh
hồn em.
Têrêsa
rất thích các lễ trọng trong Hội Thánh. Pô-lin
giải nghĩa sự mầu nhiệm của mỗi
lễ trọng cho em nghe, làm Têrêsa say mê thích thú. Tối
tối, sau khi đọc kinh, Pô-lin dẫn em vào
giường ngủ. Lần nào, Têrêsa cũng hỏi
chị :
- Hôm nay em có ngoan không ? Chúa có bằng lòng em không ? Các thiên
thần nhỏ có bay lượn quanh em không?
Bao
giờ, Pô-lin cũng trả lời : “Có”, rồi hôn em và
dỗ em ngủ. Chính Têrêsa viết trong hồi ký : “Em
vẫn thường vấn tâm : làm sao chị đã khéo
dạy dỗ em như thế ? Yêu thì rất yêu, mà không làm
em hư”. Têrêsa có lỗi, Pô-lin luôn ra công dạy dỗ, khuyên
bảo, và điều gì đã bảo là Têrêsa phải tuân
theo, nói rồi không nói lại.
Có gì, Têrêsa
cũng tâm sự với chị, gặp điều nghi nan
cũng hỏi chị để được giải
thích. Một lần kia, Têrêsa hỏi chị :
- Sao Chúa không ban cho các thánh sự
vinh hiển bằng nhau, e rằng các thánh không vui lòng ?
Người
chị liền sai em đi lấy mấy cái ly (cái cốc),
cái lớn, cái nhỏ, rồi chị rót nước vào
đầy các ly và hỏi Têrêsa :
- Cái nào đầy hơn ?
Têrêsa đáp
:
- Em nghĩ cái nào cũng đầy
cả, không thể đổ nước thêm nữa !
Bấy giờ, Pô-lin
mới giải nghĩa cho em hiểu : trên thiên đàng
cũng vậy, thánh nhỏ nhất cũng không phân bì vinh
hiển của thánh lớn, vì Đấng nào cũng
được đầy trọn vinh hiển và phúc
lộc cả rồi, không còn ao ước gì thêm nữa.
Được tình thương của các chị bao
bọc, săn sóc, và dạy dỗ như vậy, hèn chi
Têrêsa chẳng mau làm thánh ! *****
|