Đức Giêsu giáo
huấn về của cải.
(Giải
thích và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Trong chuỗi các
sự cố xảy ra liên can đến dân chúng và giáo
huấn ban cho các môn đệ, phân đoạn này phù
hợp với Mc 10,1-12. Cũng như
trong trường hợp ấy, ở đây, phần giáo
huấn cho các môn đệ đã được thêm vào sau,
bởi vì ta thấy truyện người giàu có (cc. 17-22)
tự nó đã kết thúc và được khoanh vùng rõ ràng.
2.- Bố cục
Bản văn này có
thể chia thành ba phần:
1) Cuộc gặp gỡ của
Đức Giêsu với người giàu có (10,17-22);
2) Gíáo huấn các môn đệ về
sự khó khăn của việc từ bỏ (10,23-27);
3) Giáo huấn về phần
thưởng dành cho người môn đệ (10,28-30).
3.- Vài điểm chú giải
-
Đức Giêsu vừa lên đường (17): Ekporeuomenon autou eis hodon, ở
dạng “thuộc-cách tuyệt đối” (absolute genitive),
một lối hành văn rất quen thuộc của Mc.
- có một
người chạy đến: Chỉ khi đến cuối câu
truyện, ta mới biết anh này là một người
giàu (10,22). Không có một ghi chú nào về tuổi của anh
(x. Mt 19,20).
- quỳ
xuống: Cử chỉ
này cho thấy người này hết sức kính trọng
Đức Giêsu (x. 1,40).
- Thưa Thầy nhân lành: Lời xưng hô kiểu này rất
hiếm trong Do Thái giáo thời Đức Giêsu, cho dù từ
“nhân lành” thường được áp dụng cho Thiên Chúa
ở trong Cựu Ước (x. Tv 117/118,1; 1 Sb 16,34; 2 Sb
5,13). Nói chung, người Do Thái cho rằng chỉ có Thiên
Chúa mới xứng đáng được coi là “nhân lành”,
còn không ai khác là “tốt” cả (x. Rm 7,18). Tuy vậy,
khẳng định này cũng không tuyệt đối,
bởi vì thọ tạo cũng được mô tả là
“tốt” (St 1,31). Phaolô cũng nói như
thế về Lề Luật trong Rm 7,12.16.
Đức Giêsu cũng có nói đến
người “tốt” và kẻ “xấu”.
- tôi
phải làm gì:
Người này lấy mình làm điểm chuẩn: “tôi
cần làm gì để thủ đắc sự sống
đời đời”.
- sự
sống đời đời (x. 10,30): Đây là công thức của Đn 12,2 (LXX),
có thể hiểu là sự sống sau khi sống lại,
không nhất thiết hàm ý “bất tử”. Có thể coi
như đồng nghĩa với “Nước Thiên Chúa” (x.
9,43-47).
- Không có ai nhân lành cả,
trừ một mình Thiên Chúa (18): Không thể giải thích là có một vực
thẳm giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa, vì như thế
thì quá mâu thuẫn với truyền thống Tin Mừng. Có
thể coi đây là một phản ứng của Đức
Giêsu nhằm trắc nghiệm người ấy hoặc
một phương thức sư phạm nhằm gián
tiếp giới thiệu về mình như là Con
Người.
- anh
biết các điều răn (19): Loạt các điều răn trong bài phần
lớn được rút từ phần hai của Thập
Điều (Xh 20,12-17; Đnl 5,16-21), là phần nói về
những quan hệ giữa người với
người.
- đem lòng yêu mến (21; thì quá khứ aorist của agapaô):
Hẳn là Đức Giêsu thấy anh này đơn sơ chân
thành nỗ lực tìm cách quan hệ với Thiên Chúa nên
đã tận tình giữ các điều răn; Người
“đem lòng yêu mến” anh. Tình thương này
đi đến chỗ gọi anh làm môn đệ.
- Anh chỉ thiếu có
một điều: Dù
anh đã cam đoan là giữ tất cả các điều
răn từ thuở bé, Đức Giêsu bảo rằng anh
vẫn “còn thiếu” (hystereô).
- hãy đi
bán những gì anh có mà cho người nghèo: Câu này nên hiểu như một thách
đố Đức Giêsu đề ra cho anh này hơn là
một nguyên tắc chung của đời sống Kitô
hữu hoặc thậm chí, nền tảng của một
bậc sống đạo cao hơn. Người ấy
không được hiểu rằng mình chỉ cần làm
một điều tốt hơn, là được
thừa hưởng sự sống đời đời!
Đức Giêsu yêu cầu anh bỏ hết mọi
điểm tựa an toàn để tín nhiệm vào bản
thân và sứ vụ của Người: “Rồi hãy
đến theo tôi”.
- anh ta có
quá nhiều của cải (22): Anh đã hỏi, nhưng câu trả lời
của Đức Giêsu thật quá khó đối với anh.
- các môn đệ sững
sờ (24): Các ông
sững sờ kinh ngạc bởi vì Đức Giêsu vừa
nhận định rất tiêu cực về của
cải, trong khi các ông trung thành với truyền thống Do
Thái giáo, coi của cải là một dấu chỉ về
phúc lành của Thiên Chúa, với điều kiện là
bố thí cho người nghèo. Thật ra, cái
khó không nằm ở chính của cải, nhưng những
cám dỗ chúng gây ra.
- con lạc đà …. lỗ kim (25): Mặc dù trong quá khứ, các nhà
giảng thuyết và chú giải đã tìm ra một cái
cửa nhỏ bên cạnh một cái cổng lớn ở
tường thành Giêrusalem, mà một con lạc đà không
thể đi qua, và mặc dù có một vài thủ bản
nhỏ đọc là kamilos (sợi dây thừng) thay vì kamêlos
(con lạc đà), chúng ta phải kết luận rằng
đây là một ví dụ về lối nói ngoa, thậm
xưng (x. Mt 23,24; Lc 6,41-42).
- đối
với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể
được (27):
Trước khi nói câu này, Đức Giêsu “nhìn thẳng vào
các ông”, một công thức riêng của Mc để nêu
bật tầm quan trọng của câu nói sau. Đức
Giêsu nhấn mạnh tới quyền năng của Thiên
Chúa và sự ký thác cậy dựa vào Thiên Chúa để
được cứu độ.
- chúng con
đã lìa bỏ mọi sự mà theo Thầy (28): “Lìa bỏ” (aphêkamen) ở thì quá
khứ aorist, diễn tả một hành vi đã hoàn tất,
còn “theo” (ekolouthêkamen) ở thì vị hoàn, để diễn
tả một hành vi còn đang thực hiện.
- vì Tin
Mừng (29): Chi tiết
của riêng Mc, nhằm đồng hoá Đức Giêsu
với Tin Mừng.
- sự
ngược đãi (“bách
hại”, 30): Đây cũng là một xác định riêng
của Mc, để nói rằng bước theo Đức
Kitô, là phải chấp nhận bị bách hại như
Thầy mình đã từng bị bách hại.
- mà bây
giờ, ngay ở đời này… và sự sống đời
đời ở đời sau (30): Đức Giêsu
hứa ban phần thưởng không chỉ vào đời
sau nhưng ngay vào lúc này, khi các môn đệ được
hưởng một tình bằng hữu phong phú về
mặt xã hội và về mặt tôn giáo.
4.- Ý nghĩa của bản
văn
* Cuộc gặp gỡ của
Đức Giêsu với người giàu có (17-22)
Điều
gì thật sự có giá trị? Điều gì thạt sự có ý
nghĩa? Cuộc sống hiện tại
kết thúc với cái chết. Người
giàu đến găp Đức Giêsu xác tín rằng có
một sự sống đời đời. Anh có nhiều của cải, anh biết cách lo
liệu cho cuộc sống trần thế, nhưng cảm
thấy có trách nhiệm đối với cuộc sống
tương lai. Anh muốn sống
cuộc sống trần gian thế nào để không
mất chỗ trong cuộc sống vĩnh cửu. Anh rất tin tưởng đến gặp
Đức Giêsu, và chờ đợi nhận
được những lời khuyên tốt.
Đức Giêsu chỉ cho anh các điều răn: ai
muốn tôn trọng ý muốn của Thiên Chúa, thì đang
ở trên đường dẫn tới sự sống
đời đời. Người đến gặp
Đức Giêsu đây đang đi đúng
đường: anh đã giữ các điều răn
từ thuở nhỏ. Lạ lùng là Đức Giêsu không
cổ võ cách sống của anh mà bảo anh về,
Người lại bảo anh tự giải thoát khỏi
mọi của cải và đến đi theo
Người. Người chỉ cho anh thấy một nôi
dung và một lối sống hoàn toàn mới: anh phải
đi theo Người mãi mãi, lắng nghe lời
Người nói, nhìn xem các công việc Người làm, có
đầy Thần Khí của Người, ở lại mãi
mãi với Người, chia sẻ lối sống của
Người. Sự hiệp thông liên tục với
Người đưa anh đến chỗ hiểu
thế giới và đời sống của Đức
Giêsu và chuẩn bị cho anh đi vào trong cuộc sống
đời đời, nghĩa là cuộc sống trong
Nước Thiên Chúa, trong sự hiệp thông với Thiên
Chúa.
Ở đây
Đức Giêsu khẳng định rằng con
đường mà Người đang theo
được hướng dẫn bởi thánh ý Thiên Chúa
cũng một cách trực tiếp và đảm bảo
như các điều răn. Và Người
cũng khẳng định rằng chính Người có
khả năng dẫn đưa tuyệt đối
chắc chắn đến sự sống đời
đời. Và Đức Giêsu mời gọi anh làm
cử chỉ như các môn đệ đầu tiên (x. 1,16-20; 10,28-30). Nhưng người giàu đã
không hiểu lời mời gọi của Đức Giêsu
là Tin Mừng; anh muốn vừa bám vào của cải
vừa đi theo Đức Giêsu. Sự kiện phải chọn lựa làm cho anh
buồn rầu.
* Giáo huấn các môn đệ
về sự khó khăn của việc từ bỏ (23-27)
Đức
Giêsu không nói ỡm ờ về sự khó khăn trong
việc từ bỏ của cải. Thái độ sửng sốt của
các môn đệ là dịp để Người nhắc
lại giáo huấn: đến được Nước
Thiên Chúa là chuyện khó khăn. Sự kiện các môn
đệ được gọi là “con” (chỉ có ở
đây trong TM Mc) cho hiểu rằng lời khẳng định
được nhắm trực tiếp cho họ. Nhưng Đức Giêsu cất đi cho họ
nỗi lo âu về tương lai khi qui hướng họ
về Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, có những câu
với nọi dung như thế: G 42,2;
x. St 18,14; Dcr 18,6.
* Giáo huấn về phần
thưởng dành cho người môn đệ (28-30)
Trong câu
trả lời cho Phêrô, Đức Giêsu cho thấy là
người ta có thể đạt được sự
sống này nếu liên kết với bản thân
Người. Người nào siêu thoát với những liên hệ
với của cải và với gia đình mình, mà gắn bó
với Đức Giêsu, thì sẽ thấy mở ra
trước mắt một chân trời các quan hệ bao la
hơn. Một người đi vào trong gia đình
những người đã liên kết với Đức
Giêsu, thì gặp lại những của cải và các
người thân thuộc của mình, nhờ đó
đạt được một cuộc sống mới
mẻ và phong phú hơn; đồng thời người
ấy lại đang ở trên con đường chắc
chắn đưa tới sự sống đời
đời. Câu trả lời của
Đức Giêsu hàm chứa Tin Mừng. Người cho
thấy rằng nhờ trung gian là bản thân Người,
người ta có thể đạt được sự
sống hoàn toàn mới mẻ, một sự sống có giá
trị không thể triệt tiêu.
+ Kết luận
Khuôn khổ trong
đó bản văn hôm nay được đặt vào
khiến chúng ta phải lưu ý: đây là những
điều xảy ra trong cuộc hành trình Đức Giêsu
tiến về Giêrusalem để ở đó, Người
cảm nhận sự từ bỏ đau đớn
nhất, tức là cái chết. Giữa lần loan báo
Thương Khó lần hai (9,30-31) và lần ba (10,32-34),
chủ đề “Con đường” thúc bách chúng ta xem xét
những điều kiện để theo Đức Giêsu
và để được vào Nước Thiên Chúa: đó
là sẵn sàng mở lòng ra đón tiếp, đồng
thời sẵn lòng siêu thoát mọi sự để đi
theo Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tuân giữ các
điều răn của Thiên Chúa có thể đưa
đến những thiệt thòi trong cuộc sống
hiện tại, nhưng nối kết chúng ta với ý
muốn của Thiên Chúa, tức là với chính Thiên Chúa. Như thế, nền móng của sự sống
vĩnh cửu đã được củng cố. Quả thật, chỉ từ sự kết
hợp với Thiên Chúa, là Đấng Sống vĩnh
cửu và tuyệt đối, mới trào vọt ra sự
sống đời đời.
2. Mọi
người được yêu cầu đặt việc
bước theo Đức Giêsu, vì Người và vì Tin
Mừng, trước tất cả mọi sự, thậm
chí trước chính bản thân mình và sự trọng kính
của người đương thời (x. 8,34-38). Tính mới mẻ triệt để
của lời Đức Giêsu kêu gọi đi theo Người không hệ tại lời
mời từ bỏ, nhưng hệ tại khả năng
kết dệt một liên hệ mới, có được
một nội dung mới cho cuộc sống.
3. Lời kêu gọi
của Đức Giêsu là Tin Mừng và thật ra là một
đặc quyền cao cả: bởi vì, chẳng hạn,
đặc quyền này đã không được ban cho
người ở Ghêrasa sau khi đã được
giải thoát khỏi ma quỷ (5,18t). Đức Giêsu
mời gọi chúng ta tách mình khỏi của cải không
phải để rồi chỉ còn hai bàn tay
trắng, nhưng để chúng ta trở nên tự do và có
khả năng liên kết với Người.
4. Ta chỉ có thể
đạt tới sự sống đời đời
nhờ đức tin, nhờ liên kết vô điều
kiện và đầy tin tưởng vào Người.
Nhờ hiệp thông với Đức Giêsu và với gia
đình Người, ta nhận được sự
sống đời đời như một ân
huệ. Dây liên kết với Đức Giêsu
không bị hủy diệt bởi cái chết.
|