ĐỨC GIÊSU GIÁO HUẤN VỀ CỦA CẢI
(Máccô
10,17-30 – CN
XXVIII TN - B)
1.- Ngữ cảnh
Trong
chuỗi các sự cố xảy ra liên can đến dân chúng và giáo huấn ban cho các môn đệ,
phân đoạn này phù hợp với Mc 10,1-12. Cũng như trong trường
hợp ấy,
ở đây, phần giáo huấn cho các môn đệ đã được thêm
vào sau, bởi vì ta thấy truyện người giàu có (cc. 17-22) tự nó đã kết thúc
và được khoanh
vùng rõ ràng.
2.- Bố
cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần :
1)
Cuộc gặp gỡ của Đức
Giêsu với người
giàu có (10,17-22);
2) Gíáo huấn các môn đệ về sự khó khăn của việc từ bỏ (10,23-27);
3)
Giáo huấn về phần thưởng dành cho người môn đệ (10,28-30).
3.- Vài điểm
chú giải
- Đức
Giêsu vừa lên đường (17): Ekporeuomenon
autou eis hodon, ở
dạng “thuộc-cách tuyệt đối” (absolute genitive), một lối hành văn rất quen
thuộc của Mc.
-
có một người chạy đến:
Chỉ khi đến cuối câu truyện, ta mới biết anh này là một người giàu (10,22).
Không có một ghi chú nào về tuổi của anh (x. Mt 19,20).
-
quỳ xuống:
Cử chỉ này cho thấy người này hết sức kính trọng Đức
Giêsu (x.
1,40).
-
Thưa Thầy nhân lành:
Lời xưng hô kiểu này rất hiếm trong Do Thái giáo thời Đức Giêsu, cho dù từ
“nhân lành” thường được áp
dụng cho Thiên Chúa ở trong Cựu
Ước (x. Tv 117/118,1;1
Sb 16,34; 2 Sb 5,13). Nói chung, người Do Thái cho
rằng chỉ có Thiên Chúa mới xứng đáng được coi là “nhân lành”, còn không ai
khác là “tốt” cả (x. Rm 7,18). Tuy vậy, khẳng định này cũng
không tuyệt đối, bởi vì thọ tạo cũng được mô tả là “tốt” (St 1,31). Phaolô cũng
nói như thế về Lề Luật trong Rm 7,12.16. Đức Giêsu cũng có nói đến người
“tốt” và kẻ “xấu”.
-
tôi phải làm gì:
Người này lấy mình làm điểm chuẩn: “tôi cần làm gì để thủ đắc sự sống đời
đời”.
-
sự sống đời đời (x.
10,30): Đây là công thức của Đn 12,2 (LXX), có thể hiểu là sự sống sau
khi sống lại, không nhất thiết hàm ý “bất tử”. Có thể coi như đồng nghĩa với
“Nước Thiên Chúa” (x. 9,43-47).
-
Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa (18):
Không thể giải thích là có một vực thẳm giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa, vì như
thế thì quá mâu thuẫn với truyền thống Tin Mừng. Có thể coi đây là một phản
ứng của Đức Giêsu nhằm trắc nghiệm người ấy hoặc một phương thức sư phạm
nhằm gián tiếp giới thiệu về mình như là Con Người.
-
anh biết các điều răn (19):
Loạt các điều răn trong bài phần lớn được rút từ phần hai của Thập Điều (Xh 20,12-17; Đnl 5,16-21), là phần nói về những quan hệ
giữa người với người.
-
đem lòng yêu mến (21;
thì quá khứ aorist của agapaô): Hẳn là Đức Giêsu thấy anh này đơn sơ
chân thành nỗ lực tìm cách quan hệ với Thiên Chúa nên đã tận tình giữ các điều
răn; Người “đem lòng yêu mến” anh. Tình thương này đi đến chỗ gọi anh làm môn
đệ.
-
Anh chỉ thiếu có một điều: Dù
anh đã cam đoan là giữ tất cả các điều răn từ thuở bé, Đức Giêsu bảo rằng anh
vẫn “còn thiếu” (hystereô).
-
hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo:
Câu này nên hiểu như một thách đố Đức Giêsu đề ra cho anh này hơn là một
nguyên tắc chung của đời sống Kitô hữu hoặc thậm chí, nền tảng của một bậc
sống đạo cao hơn. Người ấy không được hiểu rằng mình chỉ cần làm một điều tốt
hơn, là được thừa hưởng sự sống đời đời! Đức Giêsu yêu cầu anh bỏ hết mọi điểm
tựa an toàn để tín nhiệm vào bản thân và sứ vụ của Người: “Rồi hãy đến theo
tôi”.
-
anh ta có quá nhiều của cải (22):
Anh đã hỏi, nhưng câu trả lời của Đức Giêsu thật quá khó đối với
anh.
-
các môn đệ sững sờ (24):
Các ông sững sờ kinh ngạc bởi vì Đức Giêsu vừa nhận định rất tiêu cực về của
cải, trong khi các ông trung thành với truyền thống Do Thái giáo, coi của cải
là một dấu chỉ về phúc lành của Thiên Chúa, với điều kiện là bố thí cho người
nghèo. Thật ra, cái khó không nằm ở chính của cải, nhưng những cám dỗ chúng
gây ra.
-
con lạc đà …lỗ kim (25):
Mặc dù trong quá khứ, các nhà giảng thuyết và chú giải đã tìm ra một cái cửa
nhỏ bên cạnh một cái cổng lớn ở tường thành Giêrusalem, mà một con lạc đà
không thể đi qua, và mặc dù có một vài thủ bản nhỏ đọc là kamilos (sợi dây thừng) thay vì kamêlos (con lạc đà), chúng ta phải kết
luận rằng đây là một ví dụ về lối nói ngoa, thậm xưng (x.Mt 23,24; Lc 6,41-42).
-
đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể được (27):
Trước khi nói câu này, Đức Giêsu “nhìn thẳng vào các ông”, một công thức riêng
của Mc để nêu bật tầm quan trọng của câu nói
sau. Đức Giêsu nhấn mạnh tới quyền năng của Thiên Chúa và sự ký thác cậy dựa
vào Thiên Chúa để được cứu độ.
-
chúng con đã lìa bỏ mọi sự mà theo Thầy (28):
“Lìa bỏ” (aphêkamen)
ở thì quá khứ aorist, diễn tả một hành vi đã hoàn tất, còn “theo” (ekolouthêkamen)
ở thì vị hoàn, để diễn tả một hành vi còn đang thực hiện.
-
vì Tin Mừng (29):
Chi tiết của riêng Mc,
nhằm đồng hoá Đức Giêsu với Tin Mừng.
-
sự ngược đãi (“bách
hại”, 30): Đây cũng là một xác định riêng của Mc,
để nói rằng bước theo Đức Kitô, là phải chấp nhận bị bách hại như Thầy mình đã
từng bị bách hại.
-
mà bây giờ, ngay ở đời này… và sự sống đời đời ở đời sau (30):
Đức Giêsu hứa ban phần thưởng không chỉ vào đời sau nhưng ngay vào lúc này,
khi các môn đệ được hưởng một tình bằng hữu phong phú về mặt xã hội và về mặt
tôn giáo.
4.-
Ý nghĩa của bản văn
*
Cuộc gặp gỡ của Đức
Giêsu với người
giàu có (17-22)
Điều
gì thật sự có giá trị? Điều gì thật sự có ý nghĩa? Cuộc sống hiện tại kết
thúc với cái
chết. Người giàu đến găp Đức
Giêsu xác tín rằng có một sự sống đời đời. Anh có nhiều của cải, anh
biết cách lo liệu cho cuộc sống trần thế, nhưng cảm thấy có trách nhiệm đối
với cuộc sống tương lai. Anh muốn sống cuộc sống trần gian thế nào để không
mất chỗ trong cuộc sống vĩnh cửu. Anh rất tin tưởng đến gặp Đức Giêsu, và chờ
đợi nhận được những lời khuyên tốt. Đức Giêsu chỉ cho anh các điều răn: ai
muốn tôn trọng ý muốn của Thiên Chúa, thì đang ở trên đường dẫn tới sự sống
đời đời. Người đến gặp Đức Giêsu đây đang đi đúng đường: anh đã giữ các điều
răn từ thuở nhỏ. Lạ lùng là Đức Giêsu không cổ võ cách sống của anh mà bảo anh
về, Người lại bảo anh tự giải thoát khỏi mọi của cải và đến đi theo Người.
Người chỉ cho anh thấy một nội dung và một lối
sống hoàn toàn mới: anh phải đi theo Người mãi mãi, lắng nghe lời Người nói,
nhìn xem các công việc Người làm, có đầy Thần Khí của Người, ở lại mãi mãi với
Người, chia sẻ lối sống của Người. Sự hiệp thông liên tục với Người đưa anh
đến chỗ hiểu thế giới và đời sống của Đức Giêsu và chuẩn bị cho anh đi vào
trong cuộc sống đời đời, nghĩa là cuộc sống trong Nước Thiên Chúa, trong sự
hiệp thông với Thiên Chúa.
Ở
đây Đức Giêsu khẳng định rằng con đường mà Người đang theo được hướng dẫn bởi
thánh ý Thiên Chúa cũng một cách trực tiếp và đảm bảo như các điều
răn. Và Người cũng khẳng định rằng chính Người có khả năng dẫn đưa tuyệt đối
chắc chắn đến sự sống đời đời. Và Đức Giêsu mời gọi anh làm cử chỉ như các môn
đệ đầu tiên (x. 1,16-20; 10,28-30). Nhưng người giàu đã không hiểu lời mời gọi
của Đức Giêsu là Tin Mừng; anh muốn vừa bám vào của cải vừa đi theo Đức Giêsu.
Sự kiện phải chọn lựa làm cho anh buồn rầu.
*
Giáo huấn các môn đệ về sự khó khăn của việc từ bỏ (23-27)
Đức
Giêsu không nói ỡm ờ về sự khó khăn trong việc từ bỏ của cải. Thái độ sửng sốt
của các môn đệ là dịp để Người nhắc lại giáo huấn: đến được Nước Thiên Chúa là
chuyện khó khăn. Sự kiện các môn đệ được gọi là “con” (chỉ có ở đây
trong TM Mc)
cho hiểu rằng lời khẳng định được nhắm trực tiếp cho họ. Nhưng Đức Giêsu cất
đi cho họ nỗi lo âu về tương lai khi qui hướng họ về Thiên Chúa.
Trong Cựu
Ước,
có những câu với nội dung như thế: G 42,2; x. St 18,14; Dcr 18,6.
*
Giáo huấn về phần thưởng dành cho người môn đệ (28-30)
Trong câu trả lời cho Phêrô, Đức
Giêsu cho
thấy là người ta có thể đạt được sự
sống này nếu liên kết với bản
thân Người. Người nào siêu thoát với những
liên hệ với của
cải và vớigia
đình mình, mà gắn bó với Đức
Giêsu, thì sẽ thấy mở ra trước mắt một chân trời các quan hệ bao la hơn. Một
người đi vào trong gia đình những người đã liên kết với Đức Giêsu, thì gặp lại
những của cải và các người thân thuộc của mình, nhờ đó đạt được một cuộc
sống mới mẻ và phong phú hơn; đồng thời người ấy lại đang ở trên con đường
chắc chắn đưa tới sự sống đời đời. Câu trả lời của Đức Giêsu hàm chứa Tin
Mừng. Người cho thấy rằng nhờ trung gian là bản thân Người, người ta có thể
đạt được sự sống hoàn toàn mới mẻ, một sự sống có giá trị không thể triệt
tiêu.
+
Kết luận
Khuôn
khổ trong đó bản văn hôm nay được đặt vào khiến chúng ta phải lưu ý: đây là
những điều xảy ra trong cuộc hành trình Đức Giêsu tiến về Giêrusalem để ở đó,
Người cảm nhận sự từ bỏ đau đớn nhất, tức là cái chết. Giữa lần loan báo
Thương Khó lần hai (9,30-31) và lần ba (10,32-34), chủ đề “Con đường” thúc
bách chúng ta xem xét những điều kiện để theo Đức Giêsu và để được vào Nước
Thiên Chúa: đó là sẵn sàng mở lòng ra đón tiếp, đồng thời sẵn lòng siêu
thoát mọi sự để đi theo Chúa.
5.-
Gợi ý suy niệm
1. Nhiều Kitô
hữu không muốn
nghe đến “quà tặng”; họ nghĩ rằng họ có thể đạt được nước
thiên đàng bằng nỗ lực riêng, vì nghĩ rằng nếu họ không đạt được ơn
cứu độ nhờ các việc lành riêng, thì họ đáng bị phạt. Thật ra bất cứ ai nghĩ
như thế hẳn là đã không đọc Tin
Mừng cho kỹ, bởi vì Tin Mừng nói rằng Thiên Chúa không hỏi ý
kiến của chúng ta để biết ai xứng đáng với điều gì (x. Mt 20,15). Ta
chỉ có thể đạt tới sự sống đời đời nhờ đức tin, nhờ liên kết vô điều kiện và
đầy tin tưởng vào Ngài. Nhờ hiệp
thông với Đức
Giêsu và với gia
đình Người, ta nhận được sự
sống đời đời như một ân
huệ.
2.
Có những tín hữu coi các điều răn như là một thứ
trắc nghiệm, một bài
thi Thiên
Chúa ban
cho dân chúng để xem họ có vâng phục chăng. Một người
bạn bảo chúng
ta rằng trong vườn
của anh có mọi thư trái cây, nếu đi theo anh, ta tha hồ hưởng dùng. Ta tin
anh, ta đi theo anh và làm đúng như anh bảo. Thế thì khi ta được ăn
các loại trái cây, phải chăng ta lại yêu cầu anh ban thưởng cho ta, vì ta đã
đi theo anh? Các điều răn của Chúa chỉ
cho ta con đường ta phải theo. Người giữ
các điều răn chẳng xứng đáng được một phần
thưởng đâu, mà còn phải biết cám ơn Chúa vì Người đã
chỉ cho mình con đường đưa tới sự sống chân thật.
3.
Mọi người được yêu cầu đặt việc bước theo Đức Giêsu, vì Người và vì Tin Mừng,
trước tất cả mọi sự, thậm chí trước chính bản thân mình và sự trọng kính của
người đương thời (x. 8,34-38). Tính
mới mẻ triệt để của lời Đức
Giêsu kêu gọi đi theo Người không hệ tại lời mời từ bỏ, nhưng hệ tại khả năng
kết dệt một liên hệ mới, có được một nội
dung mới cho cuộc sống. Lời
kêu gọi của Đức
Giêsu là Tin Mừng và thật
ra là một đặc quyền cao cả: bởi vì, chẳng hạn, đặc quyền này đã
không được ban
cho người ở Ghêrasa sau khi đã được giải
thoát khỏi ma quỷ (5,18t). Đức
Giêsu mời
gọi chúng
ta tách
mình khỏi của cải không phải để rồi chỉ còn hai bàn tay
trắng, nhưng để chúng
ta trở
nên tự do và có khả năng liên kết với Người.
4.
Vấn đề không phải
chỉ là bố thí, mà lại phải cho đi mọi sự. Đức
Giêsu không kết
án của cải, nhưng chỉ
kết án sự tích lũy của cải cách ích kỷ. Lý tưởng Kitô giáo không phải
là nghèo khó, đói khát, trần truồng, nhưng là
chia sẻ tất cả những gì Thiên
Chúa đã
ban cho mình. Giàu có không phải
là một tội;
tội nằm ở chỗ giàu có một mình.
Lm
FX Vũ Phan Long, ofm
|