Đừng chia tay với người mình yêu.
Hôn
nhân là con đường thông thường của phần
đông nhân loại. Có những người
đã bước vào cuộc đời hôn nhân và đang
sống với một tổ ấm tươi đẹp,
êm đềm và hạnh phúc. Cũng có
những người đang kéo lê cuộc sống gia
đình “cơm không lành, canh không ngọt”, một cuộc
sống khổ đau không lối thoát.
Montaigne đã trình bày hôn nhân như
một chiếc lồng sơn son thiếp vàng: những con
chim ở ngoài khao khát được vào, còn những con
ở trong thì lại làm hết cách để thoát ra. Ca dao
Việt Nam cũng
có câu ý tương tự: “Cá trong lờ đỏ hoe con
mắt. Cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô”.
Cách đây không lâu, màn ảnh thành
phố chúng ta có chiếu bộ phim mang tựa đề:
“Chúng tôi muốn ly hôn” rồi một bộ phim khác mang
tựa đề ngược lại: “Đừng chia tay
người mình yêu”. Chắc chắn các bạn trẻ
đã biết nội dung những cuốn phim này nói gì. Chúng
đã nêu lên những lý khiến những đôi vợ
chồng đưa nhau ra toà án để
xin dị:
-
Tại sao chị xin ly
dị? Trước toà án, người vợ trả
lời: “Tại vì ông ấy ngáy to quá, không để cho tôi
ngủ”.
Một bà vợ khác trả lời: “Tại
vì ông ấy hôi mùi thuốc lá quá, tôi không chịu
được”… và mỗi người đều có lý do
không đâu cả, để bỏ nhau một cách dễ
dàng, nếu như được phép ly dị.
Vậy có được phép ly dị
không? Đây là một
vấn đề thời sự, nhưng cũng là một
vấn đề đã được đặt ra từ
xa xưa: Từ thời Chúa Giêsu những người
Biệt Phái Pharisiêu đã từng đặt vấn
đề này để thử Chúa Giêsu, bởi vì ông Môsê
đã cho phép họ được làm giấy ly hôn
để đuổi người vợ nào không vừa
mắt chồng ra khỏi nhà (Đnl 24,1-4).
Điều này cho ta thấy số phận
hẩm hiu của người phụ nữ trong chế
độ “chồng chúa vợ tôi”.
Chúa Giêsu đã giải quyết thế
nào? Ly
dị là một trục trặc của tình yêu, nó không
phải là vấn đề chính yếu. Cái chính yếu của hôn nhân là tình yêu hiệp
nhất. Với Thiên Chúa không có vấn
đề ly dị. Vấn đề ly dị là
vấn đề của con người. Chúa Giêsu đã
trả lời với họ: “Chính vì lòng chai dạ đá
của các ông mà ông Môsê đã phải nhượng bộ cho
phép các ông làm giấy ly hôn, chứ từ ban đầu, ý
muốn của Thiên Chúa không phải như thế”.
Chúa Giêsu phân biệt rõ rệt đâu là ý
muốn của Thiên Chúa và đâu là ảnh hưởng
của thời đại. Và ảnh hưởng của thời đại không
những làm lu mờ, mà có khi còn làm
mất cả ý muốn rõ rệt của Ngài. Thánh ý Thiên Chuá
khi dựng nên con người có nam có nữ là để
sống chung với nhau. “Đàn
ông ở một mình không tốt”. Và Ngài
đã dựng nên người đàn bà. Người
đàn bà, trước tiên là hông ân
của Thiên Chúa ban cho người đàn ông. Đây là quà
tặng cao nhất mà Thiên Chúa ban cho người đàn ông,
sau khi Ngài đã dựng nên cả vũ trụ đặt
dưới chân của ông Ađam. Nhưng Ađam vẫn
cảm thấy cô đơn, thiếu thốn, cho
đến khi Ađam gặp được chiếc
xương sườn cụt của mình là Evà, ông đã
reo lên: “Đây đúng là xương bởi xương tôi
và thịt bởi thịt tôi”. Đó là hôn nhân
đầu tiên. Từ đó
“người đàn ông luôn luôn đi tìm chiếc
xương sườn đã bị lấy mất, còn
người đàn bà luôn luôn luyến tiếc nơi mình
đã xuất phát” (Osty) để kết hợp với
nhau thành một xương một thịt, một thân
một thể. “Sự gì Thiên Chúa đã
kết hợp, loài người không được phân ly”.
Điều
Chúa Giêsu muốn bảo vệ trước hết là
phẩm giá con người. Con người càng thấp bé,
càng bị hiếp đáp bao nhiêu, càng phải
được bảo vệ bấy nhiêu. Trong chế
độ “chồng chúa vợ tôi”, Chúa đã đòi phải
trả lại cho phụ nữ quyền làm con
người, phải nhìn phụ nữ theo
ý muốn của Thiên Chúa. Phải nhìn chân giá
trị của người phụ nữ như là
người hỗ trợ, bổ túc và làm sung mãn cho
người đàn ông. Vì vậy, hôn nhân phải
đặt căn bản ở sự tương trợ
lẫn nhau, tôn trọng giá trị của nhau. Chính sự hiệp nhất này làm cho hai
người trở nên một và phát sinh hoa trái cho sự
sống mới. Đó là những đứa con
của tình yêu. Cha mẹ có yêu thương nhau thì mới yêu
thương con cái là kết quả của tình yêu giữa
vợ chồng với nhau. Cha mẹ không được
bỏ rơi con cái. Phải đón nhận tất cả
con cái Thiên Chúa đã ban cho, bởi vì các em bé là con
người. Phải tôn trọng các em như con
người, từ bào thai các em đã là
hơi thở và là đối tượng của tình yêu
Thiên Chúa. Cha mẹ, vợ chồng có chung
tình vẹn nghĩa với nhau mới có thể đảm
bảo hạnh phúc cho con cái mình.
Sở dĩ khi xưa, ông Môsê đã
chăm chước cho dân Israel được rẫy
vợ là vì lòng dạ họ lì lợm, bướng
bỉnh, chai đá. Còn
ngày nay, Chúa Giêsu đã rút lại luật Môsê, chính thức
thay thế nhừng gì là hủ tục trong Cựu
ước bằng luật Tân Ước, chính thức xác
nhận ý muốn của Thiên Chúa từ thuở ban
đầu là nhất phu nhất phụ và bất khả
phân ly của hôn nhân. Hơn nữa, từ ngày Chúa Giêsu
đến, từ ngày Ngôi Lời nhập thể làm
người, hôn nhân đã tìm thấy lại tình yêu giữa
Đức Kitô và Hội Thánh. Bởi vì,
việc kết hợp vợ chồng trong hôn nhân là
biểu tượng, là hình ảnh của sự kết
hợp giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Đó là
điều Thánh Phaolô đã nhiều lần nói đến
trong thư gởi tín hữu Êphêsô:
“Cũng như Đức Kitô không thể chia cắt
với Hội Thánh, thì chồng cũng không thể chia ly
với vợ”. Chính với tư cách là Hiền Thê của
Chúa Kitô mà Hội Thánh buộc các con cái của mình khi
lập gia đình phải tuân giữ định luật
vẫn chi phối sự kết hợp giữa Hội
Thánh với Chúa Kitô, như Hiền Thê với vị Hôn Phu
của mình. Làm sao Hội Thánh có thể trở về
với những nhượng bộ của thời Cựu
Ước về hôn nhân được, khi mà Hội Thánh
đã được nghe chính miệng Chúa Giêsu trả
lời cho những người Biệt Phái Pharisiêu: “Sự
gì Thiên Chúa đã kết hợp, con người không
được phân ly”.
Thánh
Phaolô (1Cr 7,10-11) nói rất rõ về điều này: “Ai đã
kết hôn, thì tôi truyền –thực ra không phải tôi, mà là
Chúa– là vợ không được lìa chồng, và giả
như đã lìa chồng, thì phải ở độc thân,
hay phải làm hoà lại với chồng, và chồng không
được rẫy vợ”.
Hôn
nhân là một định chế do chính Đấng Tạo
Hoá thiết lập, là một giao ước có tầm vóc
vững chắc, vĩnh viễn, nghĩa là một sự
thoả thuận cá nhân không thể rút lui lại
được. Vì lợi ích của vợ chồng,
của con cái, của xã hội và của Giáo Hội
nữa, nên mối dây liên kết thánh thiện của bí tích
Hôn Nhân không lệ thuộc vào sở thích của con
người, nghĩa là không còn được tự ý
bỏ nhau, một khi đã thề hứa chung tình vẹn
nghĩa, nên vợ nên chồng. Vì vậy, Chúa Giêsu còn nói rõ
ràng rằng: phải liệt kê vào tội ngoại tình, khi
người chồng hoặc người vợ bỏ nhau
đi lấy người khác trong lúc mối dây hôn nhân
vẫn còn hiệu lực. Chỉ có cái chết của
một bên mới cho phép bên kia
được tái hôn mà thôi.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa chúc phúc cho
mọi gia đình, nhất là các gia đình Kitô hữu mà Chúa
đã thánh hiến một cách đặc biệt bằng bí
tích Hôn nhân. Nhờ đó,
những phẩm giá tự nhiên cũng như những giá trị
thiêng liêng cao cả của đời sống hôn nhân
được bảo toàn, được cổ võ,
được kiên cường và ngày càng tiến gần
đến tình yêu trung thành và vĩnh cửu của Thiên
Chúa.
|