Đức Giêsu giáo huấn các
môn đệ
(Giải thích và suy
niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Bản
văn này dường như là một tổng hợp
những chất liệu khác biệt.
Ở cc.
38-41: Ta thấy
điều đó ngay khi nhìn bề ngoài nơi việc thay
đôi thường xuyên các nhân vật: Gioan nói ở ngôi
thứ nhất số nhiều, Đức Giêsu trả
lời ngay bằng một câu ở ngôi thứ nhất
số ít, rồi bằng một câu khác ở ngôi thứ
nhất số nhiều và cuối cùng, ở c. 41 thì ngỏ
lời với các môn đệ (hymas, “anh em”). Rồi, c. 41
nối với c. 37 thì khớp hơn là nối với cc.
38-40. Khối cc. 38-40 dường như là một
đơn vị độc lập được viết
nhằm giải quyết một một vấn đề
cụ thể của cộng đoàn, với nội dung và
cấu trúc sê-mít: c. 39 là một mệnh đề
điều kiện theo kiểu Sê-mít; c. 10 có giọng
văn một cách ngôn. Dường như c. 41 được
ghi giữ lại trong Mt 10,42, ở dạng cổ hơn:
“Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù
chỉ một chén nước lã thôi…”; bản văn nói
về đề tài “những kẻ bé nhỏ” đã
được tác giả Mc chuyển thành đề tài “các
môn đệ”.
Đến
cc. 42-48, chúng ta cũng
nhận thấy có những câu nói thuộc các thể văn
khác nhau. Dường như c. 42 tiếp nối đề
tài những kẻ bé mọn của cc. 37 và 41. Các câu 43, 45 và
47 có cùng một cấu trúc và lặp lại nhịp nhàng
đề tài cớ làm sa ngã. Có thể nói, các tư
tưởng được liên kết với nhau chỉ
về mặt từ ngữ, bằng những “từ móc
nối”. Điều đó đặc biệt rõ ràng trong cc.
48-50: “lửa” ở c. 48 đưa đến “lửa”
ở c. 49; tại đây “(ướp bằng) muối”
đưa tới “muối” ở c. 50. Nhưng trước
đó, động từ “làm cớ sa ngã” làm cho cc. 42-48
được thống nhất. Và thuật ngữ “vì danh”
móc nối cc. 37 (“vì danh Thầy”), 38-39 (“vì danh Thầy, “vì
danh Ta [Thầy]”) và 41 (“vì lẽ anh em thuộc về
Đấng Kitô” diễn tả trong hy ngữ là en onomati
hoti, là một kiểu nói Sê-mít). Ngoài ra “một em nhỏ
như em này” ở c. 37 móc nối với “một trong
những kẻ bé mọn đang tin đây” ở c. 42 (cho dù
trong hai câu ấy có hai từ khác nhau: paidion / micro).
Tuy
đây là một bản văn gồm những tư
tưởng được liên kết với nhau bằng
những “từ móc nối”, nhưng khi đã thành một
đơn vị văn chương, và đưa vào trong
tác phẩm, hẳn tác giả phải có một chủ ý khi
đặt nó vào một chỗ nhất định.
Đây
là một cuộc chuyện trò giữa Đức Giêsu và
Nhóm Mười Hai: Đức Giêsu ngồi (tư thế
của vị thầy). Truyện diễn ra “ở nhà” (c.
33), một ngôi nhà ta không biết rõ ai là chủ và toạ
lạc ở đâu. Ở đây, ngôi nhà được xác
định là tại Caphácnaum, nhưng ta vẫn có thể
gặp ở nơi khác, mỗi khi Mc cần có để
diễn tả sự kín đáo thân mật trong những giáo
huấn Đức Giêsu ban riêng cho các môn đệ, tách
khỏi đám đông (7,17; 9,28; 10,10). Trong cuộc trò
chuyện, Đức Giêsu nhấn mạnh rõ ràng đến
mối nguy đe doạ cộng đoàn khi các môn đệ
còn tìm cho được ăn trên ngồi trước.
Cuối
cùng, Mc 9,35-50 đến sau lời loan báo Thương Khó
lần thứ hai. Từ 8,31 đến 10,45, có ba lời
loan báo Thương Khó, mỗi lời đều có kèm theo
những mẩu chuyện minh họa tình trạng tăm
tối không hiểu của các môn đệ, khiến
Đức Giêsu lại có cơ hội ban một giáo
huấn về tình trạng cộng đồng sinh mệnh
giữa Người và các môn đệ. Riêng ở đây,
sau lời loan báo lần hai, vì các môn đệ còn quan tâm
đến việc “trên trước”, Đức Giêsu
dạy cho họ biết đâu là đường lối
của Thiên Chúa.
2.- Bố cục
Tuy
bản văn rất tản mạn, chúng ta có thể chia
thành hai đơn vị:
1)
Người ở ngoài nhóm (cc. 38-41);
2)
Các cớ làm sa ngã (cc. 42-48).
3.- Vài điểm chú giải
-
Người lấy danh thầy mà trừ quỷ... không theo
chúng ta (38-40): Trong
Cựu Ước, có một đoạn song song với câu
truyện này, đó là câu truyện Enđa và Mêđa không
đến họp mà cũng tuyên sấm (Ds 11,26-30; x. Cv 8,18;
19,13-14). Môsê đã tỏ thái độ khoan dung. Trong bài
tường thuật Mc, người trừ quỷ đã
sử dụng danh Đức Giêsu như một thứ khí
cụ đầy sức mạnh (x. Mc 1,24; 5,7). Đức
Giêsu dạy các môn đệ tỏ ra khoan dung với
người ấy. Thái độ của Người
dựa trên ý tưởng này là bất cứ ai đã
trừ quỷ nhân danh Người, không thể ngay sau
đó lại đi nói xấu Người. Hẳn là Mc
đang muốn nêu ví dụ này để phê bình những
khuynh hướng độc quyền trong Giáo Hội tiên
khởi. Câu 9,40 là một câu tổng-quát-hoá giáo huấn trong
c. 39 thành dạng châm ngôn.
Công
thức “vì người ấy không theo chúng ta”, chứ không
phải là “vì người ấy không theo Thầy” khiến
hiểu rằng nhóm các môn đệ là một thực
thể khép kín và có thể lời báo cáo của Gioan phản
ánh một vấn đề của cộng đoàn.
- Cho anh em
uống một chén nước (41): Nên nối kết lời khẳng
định này với c. 37: Hai câu này soi sáng cho nhau vì ta thấy
Đức Giêsu nói về em nhỏ bằng những từ
ngữ thích hợp với một sứ giả, một
vị thừa sai hơn. Chính truyền thống Tin Mừng
đã áp dụng cho các môn đệ những lời và
những cử chỉ của Đức Giêsu liên hệ
đến các em nhỏ: người ta dễ dàng chuyển
đi từ em nhỏ sang người môn đệ
được mời trở nên bé mọn (Mt 18,2-5; Mc
9,33-37) hoặc sang “kẻ bé mọn đang tin”, nghĩa là
người môn đệ yếu đuối nhất
hoặc tầm thường nhất (Mc 9,42; Mt 18,6). Câu 37
liên hệ đến việc tiếp đón em nhỏ nhân
danh Đức Giêsu, nghĩa là phù hợp với tinh thần
và điều răn của Người, dường
như nối kết hai câu được nói trong hai hoàn
cảnh khác nhau, một câu (c. 37a) nói về các em nhỏ, câu
kia (c. 37b) nói về những sứ giả của
Đức Giêsu (x. Mt 10,40; Lc 10,16; Ga 13,20). Được
diễn tả trong TM II, c. 37 này hoàn toàn phù hợp với
người môn đệ được tiếp đón
trong tư cách môn đệ. Nếu chén nước cho
người ấy có giá trị đến thế, chính là
vì Đức Giêsu tự đồng hoá với người
ấy (x. Mt 25,35-45).
Nhờ
những lời ấy, các Kitô hữu đầu tiên ý
thức rằng họ thuộc về Đức Kitô và do
đó, có những trách nhiệm: nhờ các môn đệ,
Đức Giêsu tiếp tục hiện diện nơi
thế gian này.
- Làm
cớ cho những kẻ bé mọn đang tin phải sa ngã
(42): “Những kẻ bé
mọn” đây chính là những Kitô hữu yếu
đuối hơn hoặc ít sáng suốt hơn những
người khác. Phaolô có lưu ý rằng những
người hiểu biết hơn cũng có thể
trở thành cớ khiến người yếu phải sa
ngã (x. 1 Cr 8,7-13; 9,22; 10,24-29; Rm 14,1-23). Giọng nghiêm khắc
của Đức Giêsu khiến ta hiểu phải tôn
trọng phẩm giá của những kẻ ấy và
phải ân cần săn sóc họ.
- ai làm
cớ cho… sa ngã (43-48):
Phân đoạn này có cấu trúc giống nhau (“Nếu tay …
nếu chân … nếu mắt…”; x. cc. 43.45.47): nếu một
chi thể nào là cớ đưa anh em đến chỗ
phạm tội, thì loại nó đi để tránh
được geenna (hoả ngục) và được vào
Nước Thiên Chúa. Không cần phải tìm hiểu xem
những tội của tay, của chân, của mắt là
những tội nào. Vả lại, loại bỏ những
chi thể này đâu hẳn là loại trừ được
mối nguy? Chúng tượng trưng cho tất cả các
dịp tội mà một Kitô hữu có thể khám phá nơi
bản thân hoặc trong các quan hệ bên ngoài. Đức
Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh đến giá trị
tuyệt đối của “sự sống”, của
“Nước Thiên Chúa”, tiêu chuẩn tối hậu của mọi
chọn lựa của con người (x. Mc 8,35-37 // 10,23-27
// Mt 13,44-45;…).
“Sự
sống” thì đối lại với “hoả ngục”,
được coi như nơi có những khổ hình dành
cho những kẻ tội lỗi bị loại khỏi
“sự sống”. Câu trích khá thoáng ở c. 48 gửi chúng ta
về với bản văn Is 66,22-24 trong đó vị ngôn sứ
gợi lên vinh quang của Giêrusalem, kinh đô tôn giáo của
thế giới, trong khi đó ở bên ngoài thành, tử thi
của những kẻ phản loạn chống lại
Thiên Chúa đang bị giòi bọ rúc rỉa và lửa thiêu
đốt. Đây là thung lũng (híp-ri ghê) Hinnôm (hoặc
“con cái Hinnôm”: ghê-Hinnôm hoặc ghê ben-Hinnôm; Hy Lạp: ghêenna)
gần các cổng thành ở phía nam. Ngôn sứ Giêrêmia đã
tuyên sấm rằng đây là nơi mà dân Giuđa sẽ
bị trừng phạt nặng nề, vì tội lỗi
của họ (sát tế con cho thần Môlốc) đã lên
tới cực độ (Gr 7,30-8,3; 19,7; 32,35). Lúc
đầu, lửa và giòi bọ là những cách thế
xử lý các tử thi, nay đi với nhau (Gđt 16,17; Hc
7,17) hoặc riêng rẽ (giòi bọ: G 25,5; Hc (Híp-ri) 7,17;
lửa: Mt 13,42.50…), trở thành biểu tượng của
số phận khủng khiếp của những kẻ
không chịu đáp lại lời Thiên Chúa kêu gọi hoán
cải. Viễn tượng của Mc 9,43-48 là viễn
tượng cuộc phán xét chung. Không nên dựa vào những
bản văn này mà suy đoán về thế giới bên kia,
nhưng mà soi sáng và hỗ trợ sự chọn lựa con
đường đưa đến sự sống (x. Mt
7,13-14 so sánh với cc. 24-27).
Ghi
chú: C.S. Mann giữ lại một gợi ý thú vị của
J.R. Harris: tác giả TM II đã lấy từ La-tinh salis
(muối) ở thể accusative (đối-cách) (salem) rồi liên kết từ ấy
với Híp-ri salem nghĩa là “bình an, hoà bình” (x. Dt 7,2).
Kết quả là chúng ta có một lời khuyến khích các
môn đệ giữ cho được sự bình an nơi
chính mình và duy trì sự bình an giữa họ với nhau (Mc
9,50).
4.- Ý nghĩa của bản văn
*
Người ở ngoài nhóm (38-41)
Khi
viết đoạn văn này, tác giả có hai mục tiêu.
Trước tiên, sau 8,33-37, cách xử sự của Gioan
lại cung cấp một ví dụ khác về tình trạng
thiếu hiểu biết của các môn đệ và sự
cần thiết phải sửa chữa. Các môn đệ
không những tranh nhau về chỗ trên trước, các ông
còn khoe khoang về những đặc quyền. Đó là
một điểm tiêu cực cần điều chỉnh.
Kế đó, cách Đức Giêsu đánh giá hoạt
động trừ quỷ cho hiểu rằng Người
không nhắm thành lập một nhóm khép kín để
hưởng các đặc quyền đặc lợi,
nhưng là một nhóm biết phục vụ bất cứ
ai, trong âm thầm, khiêm tốn.
* Các
cớ làm sa ngã (42-48)
Trong
khi đi theo Đức Giêsu trong cuộc chiến
đấu chống lại sự dữ, các môn đệ
phải sẵn sàng tránh làm cớ sa ngã trong mọi
trường hợp và phải sẵn sáng chấp nhận
những hy sinh. Khi làm như thế, họ không nhắm
đạt tới sự hoàn thiện cá nhân nhờ một
việc khổ chế, hãm mình, nhưng là để củng
cố sự hiệp thông giữa các thành viên. Sự
hiệp thông này bị đe dọa bởi sự tranh cãi vê
quyền trên trước, bởi việc tìm kiếm các
đăc quyền đặc lợi, bởi các cớ làm
sa ngã, bởi thái độ khinh bỉ những
người thấp kém. Do đó, lệnh truyền cuối
cùng là duy trì sự bình an có nghĩa là góp phần giúp
người ta vượt lên trên tất cả các mối
đe dọa trên (x. Dt 12,14-17).
+ Kết
luận
Cho dù
là tản mạn, các lời nói trên đây của
Đức Giêsu luôn luôn có thể giáo huấn các Kitô hữu.
Mc đã trình bày các lời này như những chỉ thị
ban cho các môn đệ dấn thân trên nẻo
đường đã từng đưa Đức Kitô
đến những đau khổ thập giá. Toàn bộ
những giáo huấn này nhắm tới lý tưởng
một cộng đoàn trong đó mọi người
sống hoà thuận với nhau (c. 50b) bởi vì sẵn sàng
phục vụ lẫn nhau (cc. 33-35).
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Đức Giêsu như đang nói: Cứ để cho
những người ở ngoài nhóm trừ quỷ!
Người đang khuyến khích người ta làm
những việc phục vụ ít lộ liễu. Quan
trọng không phải là làm những việc ngoạn
mục, tạo cảm giác mạnh, nhưng là tình yêu
diễn tả cách âm thầm, như đơn giản trao
một ly nước cho người đang khát.
2.
Lời kết án nặng nề của Đức Giêsu
đối với kẻ làm cớ cho người khác sa ngã
có thể hiểu như là một lời an ủi khích
lệ hay một lời răn đe tùy người
được nhận lời nói này. Là lời an ủi
khích lệ cho những người đạo đức,
để họ cứ vững vàng sống đúng tư
cách dù có bị thế gian khinh bỉ. Là lời răn
đe đối với những người lãnh
đạo cộng đoàn: coi chừng kẻo lối
ăn nói, cư xử của các ngài lại thành cớ cho
những kẻ mà các ngài đã đưa vào đức tin
phải mất tinh thần và buông xuôi, hoặc học
lấy một cách sống không phù hợp với
người môn đệ của Đức Kitô.
3.
Những ai có tinh thần của Đức Giêsu thì phải
phục vụ như Người: quan tâm đến
những kẻ thấp cổ bé miệng, những
người cô thế cô thân, và cứ phục vụ họ
trong thái độ kín đáo, khiêm tốn. Chỉ những
người đó, vì kiến tạo được sự
hiệp nhất trong các cộng đoàn, mới có thể
làm chứng cho thế giới thấy rằng Nước
Thiên Chúa đã ở giữa loài người.
4.
Thế giới và lịch sử đều những
hạt giống Lời Chúa. Ở bên ngoài Hội Thánh,
nơi các dân tộc khắp nơi, nơi những
người đang mở ra với làn hơi Thánh Thần,
hiện có thực tại phôi thai của Nước Thiên
Chúa. Chức năng của Hội Thánh là làm bừng lên và
kiện toàn và đưa vào trong Hội Thánh-dấu chỉ
thực tại hợp nhất của bất cứ
điều gì được gieo vào trong trí tuệ và trái
tim con người. Mọi công cuộc phúc âm hóa tùy thuộc
vào điển hình này. Lời đã được gieo vào
trong trí tuệ và trái tim con người, ta có thể
thấy cả nơi các cá nhân và trong các nghi thức và
tập tục của các dân tộc. Lời này
được Thánh Thần đưa tới chỗ
hợp nhất đức tin trong bí tích Rửa tội.
Tất cả mọi người đều cần
được liên tục kéo đến dấu chỉ
hợp nhất. Mọi người đều loan báo Tin
Mừng và được loan báo Tin Mừng.
|