Đức Giêsu chữa
người vừa điếc vừa ngọng
(Giải
thích và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ
cảnh
Sau
khi Đức Giêsu bị dân Nadarét loại trừ (6,1-6a), các môn đệ được sai
đi rao giảng sự sám hối và trừ quỷ (6,7-13).
Nhưng khi Người đề nghị cho đám đông
ăn (6,37), thì các môn đệ sửng sốt,
cũng ý như khi họ thấy Người đi trên
mặt biển (6,51). Những người
nghe đọc Tin Mừng có nắm được
tương quan giữa khả năng đi trên mặt
nước và khả năng nuôi sống đám đông chăng?
Việc Đức Giêsu đi vào vùng Dân ngoại
(địa hạt Tia và Xiđôn), tại đó
Người đã chữa con gái một bà gốc Phênixi
xứ Xyri (7,24-30) và chữa người vừa
điếc vừa ngọng (7,31-37) cũng như hóa bánh
nhiều lần thứ hai (8,1-10) hẳn là khích lệ các
độc giả gốc Dân ngoại nhiều.
2.- Bố
cục
Bản
văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh (7,31);
2) Đức Giêsu chữa người
tàn tật (7,32-35);
3) Lệnh Đức Giêsu cấm
phổ biến và phản ứng của dân chúng (7,36-37).
Tuy
nhiên, bản văn có gây ra những thắc mắc: nơi
chốn không thể xác định; người tàn tật
có vẻ thụ động (không có đối thoại, có
vẻ các cử chỉ của Đức Giêsu và công
thức A-ram quan trọng hơn); vai trò của nước
miếng; một lệnh yêu cầu thinh lặng, nhưng
không giữ được…
3.- Vài
điểm chú giải
- bỏ vùng Tia, đi qua … đến… (31): Lộ trình của Đức Giêsu
hơi lạ (đi vòng lên phía bắc, rồi quặt
xuống phía đông nam, tiếp tục đi xuống phía
nam băng qua Xêdarê Philipphê, đi đến phía đông
của sông Giođan, và như thế đến gần
hồ Galilê về phía nam, trong phần lãnh thổ Thập
Tỉnh). Có lẽ tác giả Mc muốn mô
tả cuộc hành trình xuyên qua một vùng đất
phần lớn thuộc Dân ngoại để báo
trước sứ mạng của Giáo Hội là phải
đến với muôn dân.
- vừa điếc vừa ngọng (32): Từ ngữ Hy Lạp kôphos (x.
7,37; 9,25) có nghĩa là “điếc”. Còn mogilalos (không phải
là alalous, “câm”, c. 37) không có nghĩa là mất tiếng hoàn
toàn, chỉ có nghĩa là nói khó khăn (vì thế,
đến c. 35: “anh ta nói được rõ ràng”).
-
Người kéo riêng …
(33): Tác giả Mc mô tả phép lạ này theo
tập tục thời đó trong thế giới Hy-La: tránh
những cặp mắt hiếu kỳ, sự đụng
chạm bằng tay, dùng nước miếng, nhìn lên
trời, thở dài, những lời nói bằng tiếng
ngoại quốc. Những chi tiết này
phản ánh lối chữa bệnh thời đó, nhưng
cũng rất có thể là những quy ước của
một thể văn (x. K. Kertelge; K. Tagawa; A. Duprez).
-
đặt ngón tay vào lỗ tai: Những hành vi biểu tượng của
Đức Giêsu, mà những người chữa bệnh
Hy-La và Do Thái thường làm, gợi ý cho người tàn
tật biết rằng anh rất có thể được
chữa lành.
- nhổ nước miếng mà bôi vào
lưỡi: Sử gia
Pliniô kể rằng hoàng đế Vespasianô đã chữa
một người mù bằng nước miếng (Hist.
nat. 28, 4,7; Tacite, Hist. 6,18). Bài tường thuật này,
cũng như những bài Mc 8,23 và Ga 9,6, là những dịp
trong đó kể rằng Đức Giêsu đã dùng
nước miếng. Chúng ta không
được biết chắc chắn nước
miếng được sử dụng như thế nào.
Có những thủ bản cho rằng nước miếng
được bôi trên môi, hoặc đặt vào miệng
như một cử chỉ tượng trưng; trong khi có
những dị bản nói là cả ở trên tai
nữa. Bản văn là “nhổ và chạm lưỡi anh”,
và Zerwich & Grosvenor giải thích: “bằng nước
miếng”. Mann cho rằng các hành vi này
chỉ có tính cách tượng trưng mà thôi.
- Rồi
Người ngước mắt lên trời, rên một
tiếng (34): Những
cử chỉ này diễn tả Đức Giêsu cầu
nguyện với Thiên Chúa và động lòng thương
người tàn tật. Không nên coi các cử
chỉ này như là yếu tố của nghi thức ma
thuật.
-
Ép-pha-tha: Câu “Hãy mở
ra” là lời dịch nghĩa từ Hy Lạp ephphtha phiên âm
từ A-ram ippơtah (hoặc itpơtah), do động
từ phatah là “mở ra”.
- tai mở ra, lưỡi hết bị
buộc (35): Đây là chi
tiết văn chương nhằm nói rằng Đức
Giêsu không phải chỉ là một người chữa
bệnh; chân tính Người là khác, và người ta
chỉ biết được rõ ràng chân tính của
Người khi theo Người đến chân thập giá
và đến cuộc Phục Sinh.
- ông làm
cho kẻ điếc nghe được, kẻ câm nói
được (37):
Nhận định này của đám đông nhắc
tới Isaia 35,5-6, mà đoạn văn Isaia này là một
phần thuộc về cái nhìn tương lai vinh quang
của Israel (Is 34–35). Bản văn Cựu
Ước này được sử dụng ở đây,
điều này chứng tỏ rằng tương lai vinh
quang của Israel đã hiện diện
trong sứ vụ của Đức Giêsu.
4.- Ý
nghĩa của bản văn
* Hoàn
cảnh (31)
Có
lẽ câu truyện bắt đầu từ c. 32, còn tác
giả Mc đã tạo ra c. 31 để cung cấp một
cái khung địa lý cho bản văn, vì chúng ta biết
rằng Xiđôn đã được nói đến ở
3,8, còn Thập Tỉnh đã được nhắc
đến ở 5,20. Vậy c. 31 là câu nối
bản văn với phần đi trước. Các
chi tiết gom lại ở đây muốn nói đến các
miền đất ngoại giáo chung quanh
Galilê và nêu bật chủ trương phổ biến Tin
Mừng sang đất Dân ngoại.
*
Đức Giêsu chữa người tàn tật (32-35)
Cuộc chữa bệnh có những cách
thực hành quen thuộc trong các truyện phép lạ
thời đó. Đức Giêsu đưa anh bệnh ra riêng. Tất cả chuyện này có ý là giữ bí mật
cách trị liệu của vị thầy. Các cơ quan có bệnh được chạm
đến. Vị thầy ấn ngón tay
trên hai tai điếc, rồi bôi nước miếng lên cái
lưỡi ngọng. Ngước mắt lên
trời là để xin sức mạnh siêu phàm; thở dài
hay rên cũng nhắm như vậy. Tiếng epphatha
trong bối cảnh phép lạ Hy Lạp là lời phù chú
không ai hiểu được; nhưng trong Mc, từ này
đã được dịch ra rõ ràng (tương tự 5,41). Đức Giêsu cho người ta
biết rõ ràng quyền lực của Người. Đây là lời Người nói với anh bệnh
cho đến lúc này vẫn chưa có khả năng nghe
được, chứ không phải là nói với các cơ
quan bị bệnh. Tức khắc, anh
này được lành; sự kiện anh được
lành được nêu ra như một điệp khúc
đáp lại lời vừa được truyền ra.
Rất có thể chi tiết “lưỡi
bị buộc” có ý nói đến tên quỷ của
bệnh, mà nay anh này đã được giải thoát
khỏi.
* Lệnh
Đức Giêsu cấm phổ biến và phản ứng
của dân chúng (36-37)
Đức
Giêsu truyền cả anh bệnh đã lành cũng như
những người có mặt phải giữ im lăng. Nhưng những
người đã đón nhận được mạc
khải trong phép lạ này không thể giữ kín
được. Tác giả Mc muốn
nhắc độc giả vừa phải giữ làm sao
để người ta khỏi hiểu sai thân thế và
sứ mạng của Đức Giêsu, vừa phải nhận
ra và giới thiệu Người là Đấng Cứu
Thế. Phản ứng hứng khởi của dân cho ta
lời giải nghĩa thần học của phép lạ.
Nhờ hoạt động của Đức Giêsu, cuộc
tạo thành đã hư hỏng nay được tái
thiết (x. St 1,31).
+ Kết luận
Đọc lướt qua, chúng ta
thấy đây là một bài tường thuật về
một phép lạ chữa bệnh về thể lý. Thật ra, bài này, cùng với các bài
tường thuật về việc chữa người mù
(8,22tt; 10,46tt) là một lời cam kết rằng
Đức Giêsu có thể mở tai, tháo lưỡi, mở
mắt cho các môn đệ, và là một lời mời
gọi các ông tin tưởng vào Người, và để
Người giúp các ông. Hãy nhìn nhận sự
giải thoát mà Người đã mang lại cho chúng ta.
Cũng hãy cố gắng đón nhận
sự giải phóng mà Người đang muốn ban cho
chúng ta, trên nẻo đường Người đang
mở ra trước mắt chúng ta, xuyên qua những
ngờ vực và những nỗi sợ hãi, mà tiến
về vinh quang của Người.
5.- Gợi
ý suy niệm
1.
Các môn đệ của Đức Giêsu cũng phải có
tâm tình tha thiết của Người là đưa Tin
Mừng đến cho các Dân ngoại. Nếu ngại ngùng
vì đường dài, e dè vì những khó khăn có thể
gặp về mọi phương diện, các ông sẽ
không đi xa được, và sẽ phản bội
bản chất của Tin Mừng vì Tin Mừng là ánh sáng
cứu độ được Thiên Chúa ban cho mọi
người qua trung gian của các ông.
2.
Các môn đệ đã không hiểu bản thân và sứ
mạng của Đức Giêsu nên đã bị Người
trách (7,18; 8,17-21). Sự kiện
Đức Giêsu đã mở tai của
người điếc cho hiểu rằng Người có
thể ban sự hiểu biết cần thiết
để người ta sống đức tin. Và chính các
môn đệ cũng cần được Người
mở tai cho, hầu nghe được
và hiểu được những giáo huấn của
Đức Giêsu, và nghe ra tiếng kêu la của những con
người khốn khổ hôm nay.
3.
Theo thánh Bêđa (PL 92,203t), người Kitô hữu nào không
lắng nghe Lời Chúa là người điếc và kẻ
nào không truyền đạt lời tuyên xưng đức
tin cho kẻ khác là người câm. Nước miếng mà
Đức Giêsu bôi vào lưỡi anh câm có nghĩa là sapor
Domini sapientiae (hương vị của sự khôn ngoan
của Chúa); còn ngón tay mà Đức Giêsu ấn trên tai anh
điếc, tượng trưng ân huệ Thánh Thần (x.
Lc 11,20).
4.
Giai thoại Đức Giêsu chữa người vừa
điếc vừa ngọng này có thể được coi
như một dụ ngôn nói về biết bao hoàn cảnh
khó khăn và bệnh tật của chúng ta hôm nay. Đây là những hoàn cảnh ngặt nghèo
khiến chúng ta ở xa rất nhiều “điều”,
nhưng đồng thời lại cho chúng ta gặp
được Chúa tể sự sống. Khi đó,
đã được tháo cởi tai và
miệng, chúng ta có thể nói: “Ngài làm điều gì cũng
tốt cả”, với sự kinh ngạc thấm
đẫm tâm tình biết ơn.
5.
Khi Đức Giêsu nói “hãy mở ra”, tai
anh ta mở ra lập tức và “anh ta nói được rõ
ràng”. Đức Giêsu nói ra và điều
ấy xảy ra. Hôm nay Đức Giêsu cũng nói
Lời Người trên chúng ta, “Hãy mở ra!”.
Với đôi tai đã được
mở ra, chúng ta không những lãnh nhận lời
Người, mà lòng chúng ta cũng được mở ra
để đón lấy nữa. Nghe Lời
Chúa sẽ biến đổi chúng ta.
“Hãy
mở ra!”. Những lời
này mở chúng ta ra với lòng nhân từ của Thiên Chúa.
Những lời đó cũng mở ra cho chúng
ta thấy Thiên Chúa đang ở trong chúng ta, từng ngày,
trong các liên hệ giữa chúng ta và các loài thọ tạo.
Đó chẳng phải là một bí nhiệm sao: một
người trông thấy và nghe được Thiên Chúa trong
những biến cố nhỏ bé,
thậm chí không đáng kể thuộc đời sống
hằng ngày? (Siciliano)
|