Tiến
sĩ luật bị tù – Lm. Mark Link.
Chủ đề: "Trọng tâm tôn
giáo không ở tại nghi thức và lề luật mà ở
tại yêu mến Chúa và tha nhân"
Nhà
thần học William Barclay kể lại câu chuyện
một Rabbi (tiến sĩ Luật Do Thái giáo) lão thành nọ
bị tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm
mục đích kéo dài cuộc sống. Thời gian trôi qua,
vị Rabbi ấy ngày càng yếu dần.
Cuối cùng người ta buộc phải
mời một y sĩ đến khám. Y
sĩ bảo rằng cơ thể ông ta bị thiếu
nước. Báo cáo của y sĩ khiến đám
sĩ quan cai ngục bối rối.
Họ không hiểu nổi tại sao vị Rabbi ấy
lại có thể thiếu nước, bởi vì khẩu
phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, song
vẫn tương đối đủ chứ đâu
đến nỗi tệ! Thế là đám lính gác liền
chú ý quan sát "Ông già" ấy một cách kỹ
lưỡng hơn để thử xem ông ta làm gì với
số nước ấy. Cuối cùng
người ta đã khám phá ra bí mật. Ông Rabbi ấy
đã sử dụng phần lớn số nước
để rửa tay theo nghi thức tôn
giáo trước khi cầu nguyện và ăn. Như
thế đương nhiên ông ta chỉ còn lại rất
ít nước để uống.
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu
được bài Phúc Âm hôm nay. Nó giúp ta hiểu rõ hơn các nhà lãnh đạo tôn giáo
Do Thái đã cảm thấy chướng tai
gai mắt và bực bội thế nào khi nhìn thấy các môn đệ
Chúa Giêsu ăn uống mà chẳng chịu rửa tay theo
đúng nghi thức. Đấy chính là
điểm quan trọng của bài Phúc Âm hôm nay.
Điểm quan trọng này được biểu lộ
trong một tranh luận sôi nổi giữa chúng ta và
những nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái. Chúng
ta hãy xét kỹ hơn cuộc tranh luận đặc
biệt này.
Khi
Chúa Giêsu nói về "Lề luật", thì từ ngữ
này có một trong hai ý nghĩa: Hoặc là lề luật
thành văn hoặc là lề luật "truyền
khẩu". Trong hai thứ lề luật này
cái cổ hơn và quan trọng hơn là lề luật thành
văn. Lề luật này căn cứ trên sách Torah
(Ngũ Thư) nghĩa là 5 quyển sách đầu tiên
của Cựu Ước, đôi khi còn gọi là luật
Môisê. Một số lề luật này mang tính cụ thể
và đặc thù, số còn lại thì rất chung
chung giống những kiểu mẫu phải theo hơn là
luật lệ. Trong một thời gian dài, dân
Do Thái bằng lòng với những "kiểu mẫu"
này. Họ áp dụng chúng vào đời
sống vì thấy chúng thích hợp.
Tuy nhiên, tới thế kỷ thứ
năm trước Công nguyên, có một nhóm chuyên nghiên
cứu về Luật đã tạo được một
ảnh hưởng mạnh mẽ trong dân chúng Israel. Họ thấy những điều
luật tổng quát trong bộ luật ấy quá mơ
hồ, thiếu tính rõ ràng, cần phải được
soạn thảo lại cho rõ ràng, với nhiều chi tiết
hơn. Và họ đã tiến hành làm công
việc ấy. Từ đó phát sinh ra bộ luật
thứ hai, gồm những luật truyền miệng, hay
những truyền thống khẩu truyền. Trong khoảng thời gian này, trong dân chúng Do Thái, có
rất nhiều người muốn bắt chước
các tư tế của họ về sự thánh thiện
bề ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng hạn theo lề luật thành văn, mọi tư
tế đều phải rửa tay trước khi vào
nơi thánh trong đền thờ. Mục
đích của luật này là tẩy rửa đi tất
cả những gì là ô uế về mặt tôn giáo để
các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa
hơn. Dần dần, dân chúng cũng bắt
chước các tư tế rửa tay
trước khi cầu nguyện. Và bằng những suy
nghĩ tương tự như thế, họ cũng
rửa tay trước khi dùng bữa
nữa. Vào thời Chúa Giêsu, dân Do Thái tuân giữ những
lề luật truyền khẩu này cũng tỉ mỉ và
thành tín chẳng khác nào lề luật thành văn của
Ngũ Thư. Ý tưởng hàm chứa đàng sau việc
tuân giữ này quả thực cao đẹp, bởi nó
nhằm mục đích làm cho tôn giáo thấm nhập vào
mỗi hành vi của cuộc sống. Nhưng trong quá trình
thực thi luật lệ này, một điều bi đát
đã xảy ra vì tôn giáo đã dần dần thoái hoá thành
một hoạt động chỉ đơn thuần là chu toàn những nghi thức bên ngoài: Tuân
giữ những nghi thức này thì được kể là
đạo đức, là biết phụng sự Chúa.
Để nói lên sự nguy hiểm của thói nệ
luật ấy, William Barclay chứng tỏ rằng xét
về mặt lý thuyết, người ta có thể căm
ghét kẻ khác một cách sâu sắc từ trong trái tim,
nhưng họ chẳng hề áy náy gì cả "bao lâu
họ còn tuân thủ chặt chẽ nghi thức rửa tay
và những nghi thức đúng đắn khác về vấn
đề thanh tẩy".
Để minh hoạ thói nệ luật
này rõ hơn, Barclay kể thêm một câu chuyện có lẽ
có ghi trong Nguỵ thư nói về
một người Hồi Giáo đuổi theo để
giết kẻ thù của anh ta. Đang khi rượt theo kẻ thù ấy, chợt hồi chuông báo
giờ cầu nguyện vang lên. Lập tức anh hồi
giáo này nhảy ngay xuống ngựa, mở thánh kinh ra quì
gối xuống và cầu kinh theo như
luật định một cách hết sức lẹ làng.
Đoạn, anh ta lại leo lên ngựa tiếp
tục rượt theo kẻ thù. Đó chính là
chủ nghĩa câu nệ lề luật mà Chúa Giêsu cực
lực phản đối.
Tất cả những chuyện ấy
dạy chúng ta điều gì? Nó cảnh cáo ta đừng rơi vào chủ nghĩa
đồng hoá tôn giáo với việc chu
toàn những hành vi bên ngoài. Chẳng hạn
việc đi lễ, đọc kinh, đọc sách thánh,
làm việc bố thí… tự chúng chưa bảo đảm
rằng chúng ta thánh thiện đâu. Lý do rất
đơn giản là chúng ta có thể làm tất cả
những điều này vì một lý do không mấy đúng
đắn, hoặc chúng ta có thể làm tất cả
điều này mà không phải do yêu thương, vì
điều quan trọng không phải là việc chúng ta làm,
mà chính là tình yêu trong trái tim đã thúc đẩy chúng ta làm
việc đó. Nếu trái tim chúng ta
chất đầy nỗi chua chát hoặc kiêu căng thì
tất cả mọi nghi thức bề ngoài trước
mắt thế gian cũng sẽ chẳng làm cho chúng ta thánh
thiện trước mặt Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta nhìn
lại tâm hồn mình, tự vấn xem mình đã áp dụng
những lời trong bài đọc thứ hai chưa? "Anh chị em đừng đánh
lừa mình khi cho rằng chỉ cần nghe lời Chúa là
đủ… Tôn giáo tinh tuyền và chân thực phải là
biết lo lắng cho kẻ mồ côi goá bụa.. và giữ mình khỏi
bị băng hoại hư hỏng". Và
liệu những lời của tiên tri Isaia mà Chúa Giêsu dùng
trong bài Phúc Âm hôm nay bao gồm cả chúng ta không? "Đám dân này thờ Ta ngoài môi miệng, còn lòng
dạ chúng thì quả thực là xa Ta".
Tóm
lại, điều cốt lõi trong tôn giáo không phải là
chúng ta làm việc này việc nọ, mà chính là lý do thúc
đẩy chúng ta làm những việc ấy. Hành
động của chúng ta phải phát xuất từ tình
yêu, từ con tim: yêu Thiên Chúa và
thương tha nhân. Để kết thúc, chúng ta hãy nghiêm
trang đọc lại những lời nói về Tình yêu
của thánh Phaolô trong thư thứ
nhất gởi tín hữu Côrintô. "Dù cho tôi có biệt tài
giảng thuyết… Dù cho đức tin tôi cực kỳ
mạnh mẽ có thể dời núi chuyển non,
mà nếu chẳng có Đức Ái thì tôi sẽ chẳng là
gì cả. Dầu tôi dâng hiến tất cả
mọi điều tôi có mà tôi không có Đức Ái thì
điều ấy cũng chả lợi lộc gì cho tôi.
"Tình yêu đòi hỏi sự kiên
nhẫn và tử tế, không ganh tị, kiêu căng xấc
láo, tình yêu khiến ta không vụng xử, không ích kỷ hay
dễ nóng giận, tình yêu không để bụng chấp
nhất những sai trái. Tình yêu không bao giờ lùi bước, tình yêu thì
bất diệt. Vì thế, tình yêu chính là
điều anh em phải nổ lực tìm kiếm".
(1Cr 13, 2-8; 14,1)
|