Sự sống phát xuất từ việc
trao ban sự sống
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ
Phan Long)
1.- Ngữ
cảnh
Đoạn văn này nằm trong Phần I
của TM IV (“Sách các Dấu lạ”, ch. 2–12) và thuộc bài
diễn từ “Bánh trường sinh” (6,1-71).
Nói chính xác, bài diễn từ “Bánh
trường sinh” bắt đầu từ c. 25 và
được kết cấu thành năm vòng tròn, mỗi
vòng bắt đầu bằng một câu nói của
Đức Giêsu và một vấn nạn của
người Do Thái: a) 6,25; b) 6,28; c) 6,34; d) 6,41; e) 6,52. Cứ
một câu hỏi của người Do Thái lại
đưa Đức Giêsu đến một mạc
khải mới về mầu nhiệm bản thân
Người; mạc khải này càng gây thắc mắc cho
người Do Thái hơn. Năm vòng tròn này chuyển theo
hình trôn ốc, đưa đến chọn lựa
cuối cùng: bỏ rơi Đức Giêsu (6,66) hoặc
tiếp tục gắn bó với Người (6,69).
2.- Bố
cục
Bản văn có thể được chia
thành bốn phần:
1) Đề tài được xác
định lần ba (x. cc. 35 và 48): “Tôi là bánh hằng
sống” (6,51);
2) Thắc mắc của người Do Thái
(6,52);
3) Triển khai đề tài (6,53-56);
4) Nền tảng của đề tài
(6,57-58; c. 58a nhắc lại c. 51a).
3.- Vài
điểm chú giải
- từ trời xuống (51): hàm ý mầu
nhiệm Nhập Thể.
- bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây
(51): Chúng ta có thể tự hỏi vì sao tác giả Gioan không
dùng từ ngữ “thân thể”
(sôma) mà lại dùng từ “thịt”
(sarx), nhất là khi mà từ sôma đã trở thành từ
quen thuộc trong văn chương Tân Ước
để gọi bí tích Thánh Thể (x. Mc 14,22; Mt 26,26; Lc
22,19; 1 Cr 11,24). Đồng ý là trong bữa tiệc cuối
cùng, hẳn là Đức Giêsu đã sử dụng từ
A-ram bơsar (Híp-ri bâsâr), và từ này, cho dù chỉ “thân
thể”,
vẫn được ưu tiên dịch ra bằng sarx, “thịt”, trong Bản
dịch LXX. Nhưng thông thường, Ga cũng không
mấy để ý đến từ Hy Lạp chính xác.
Ở đây hẳn phải có lý do khác.
Sarx đúng là
từ để dịch bơsar.
Nhưng sarx không chỉ có
nghĩa là “thịt” là còn có nghĩa là “toàn thân thể”; “toàn
thể con người” [theo nghĩa là có quan hệ với
người chung quanh; x. 1,14]. Để diễn tả các
sắc thái này, ngôn ngữ Hy Lạp có khả năng tinh
tế hơn tiếng A-ram. Nhưng trong Do Thái giáo sau này,
người ta đã chọn dịch bơsar là sôma, cho
dù trong Tân Ước, đôi khi người ta dùng cả hai
từ. Nhưng để nói về bí tích Thánh Thể,
từ sôma đã được chọn, ngoại trừ
một vài bản văn sau thời các tông đồ,
được viết dưới ảnh hưởng
của Ga 6, đã dùng từ sarx
(vd: thánh Inhaxiô Antiôkhia, thánh Giúttinô…). Như thế, dù trong
Hội Thánh tiên khởi, đã có một từ nhất
định để gọi bí tích Thánh Thể, nếu Ga
vẫn giữ lại từ sarx, là vì sarx-thịt có trong ngôn ngữ A-ram một ý
nghĩa rộng hơn sôma-thân thể. Đàng khác, trong Ga, sôma được dùng
để gọi một xác chết: làm thế nào một
xác chết có thể ban sự sống? Ngược
lại, “thịt” vừa có nghĩa là toàn thể con người
vừa có nghĩa là thân thể, và “hai nghĩa trong một”
này rất lý tưởng để gợi ra một trật
cái chết trên thập giá và bí tích Thánh Thể. Bởi vì ý
nghĩa căn bản và tại nguồn của “thịt mà
Con Người sẽ ban” không phải là bí tích Thánh Thể,
mà là “chính bản thân” Người trong cái chết trên
thập giá. Vậy, khi Đức Giêsu nói về “thịt
của Người để cho thế gian
được sống”, Người muốn nói
đến “bản thân Người” (chịu sát tế)
để cho thế gian được sống”.
- làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt (52):
Đại danh từ Hy Lạp “ông
này” (houtos) hàm ý khinh bỉ (x. c. 42). Trong Kinh Thánh, “ăn
thịt ai” là một công thức bóng bảy để
diễn tả sự thù nghịch (x. Tv 27,2; Dcr 11,9). Còn
việc uống máu bị coi như một việc ghê
tởm bị luật Thiên Chúa cấm (St 9,4; Lv 3,17; Đnl
12,23; Cv 15,20).
- ăn... uống (53): Hai động từ Hy
Lạp này (esthiein và pinein) là những hành vi rất cụ
thể để nuôi dưỡng thân xác.
- thịt... máu (53): Thành ngữ Híp-ri “thịt và
máu” có nghĩa là toàn thể con người. Vào thời phong
trào Cải Cách (tk. xvi), người ta đã tranh luận là
có cần nhận Thánh Thể dưới hai hình không.
Tất cả những gì có thể rút ra từ bản
văn này là: cần phải nhận trọn vẹn
Đức Kitô.
- Ai ăn (54 và 57): Động từ “ăn”
ở đây là trôgein
(bản văn tiếng Anh dịch là feed) chứ không
phải là esthiein như
ở trên, để diễn tả một hành động
rất cụ thể: “nhai bằng răng”. Động
từ này nêu bật tính hiện thực của bí tích Thánh
Thể.
- ở lại (56): Động từ menein (remain; rester) là một
động từ quan trọng của TM Ga (x. chương
15: “Cây nho thật”; động từ này được
dùng trong TMNL: 12 lần; Ga: 40 lần; 1-3 Ga: 27 lần; Kh: 1
lần). Tác giả Ga thích dùng động từ này
để diễn tả quan hệ trường tồn
giữa Chúa Cha và Chúa Con và giữa Chúa Con và các Kitô hữu.
Ở trong Cựu Ước, “trường tồn” là
một đặc điểm của Thiên Chúa và của
những thứ thuộc về Thiên Chúa (x. Đn 6,26; Kn
7,27; 1 Pr 1,25), đối lại với đặc tính
tạm bợ, chóng qua của con người. Tuy nhiên, TM IV
còn dùng một công thức là “ở trong” (menein en) để
nói về tính nội tại liên kết Chúa Cha, Chúa Con và các
Kitô hữu lại với nhau: như Con ở trong Cha, và Cha
ở trong Con (14,10-11), thì Con cũng ở trong loài
người, và loài người phải ở trong Cha và
trong Con (17,21.23).
- kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà
được sống (57): Bí tích Thánh Thể thông ban
cho các tín hữu sự sống mà Chúa Con nhận từ
nơi Chúa Cha.
- chết (58): Đây là cái chết thể lý
đối lại với sự sống thiêng liêng.
4.- Ý nghĩa
của bản văn
Trong tư cách là Con Thiên Chúa được
Chúa Cha sai đến, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta
hiệp thông vào sự sống với Người. Nếu
chúng ta tin vào Người, chúng ta được đi vào
trong sự sống với Người, trong sự sống
vĩnh cửu. Ở đây Người giải thích
cặn kẽ Người là bánh ban sự sống cho chúng
ta như thế nào: Trong cái chết trên thập giá,
Người hiến mình cho thế gian được
sống và Người ban cho chúng ta thịt và máu
Người làm của ăn của uống.
* Xác định đề tài (51)
Đề tài đã được xác
định ở cc. 35 và 48, nay lại được
nhắc lại, nhưng mang ý nghĩa phong phú hơn,
bởi vì đã được triển khai hai đợt
(cc. 35-47 và cc. 48-50). Khi nói “Tôi là bánh hằng sống từ
trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được
sống muôn đời” (c. 51a), Đức Giêsu tóm ý nghĩa
của dấu chỉ hóa bánh ra nhiều. Chính bản thân
Người là sức sống thiên quốc và thần linh,
tuyệt đối không thể cạn kiệt. Ai đi vào
tương quan đúng đắn với Người thì
được thông phần vào sự sống muôn
đời. Trong câu “Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là
thịt tôi đây, để cho thế gian được
sống” (c. 51b) chứa đựng những yếu tố
sẽ được triển khai sau này. Cho đến nay,
các lời Đức Giêsu nói chỉ giới thiệu
tổng quát rằng Người là bánh ban sự sống;
nhưng bây giờ Người nói rằng trong tương
lai, Người sẽ ban bánh. Bánh ấy chính là thịt
Người, hoặc là chính bản thân Người với
trọn vẹn cuộc sống con người.
Người đã đưa nhân tính của Người ra
mà phục vụ sự sống của thế giới,
của tất cả mọi người không loại
trừ ai.
* Thắc mắc của người Do Thái (52)
Người Do Thái bị vấp phạm
nặng nề vì lời khẳng định của
Đức Giêsu: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn
thịt ông ta được?”. Với mức độ
Đức Giêsu mạc khải rõ ràng hơn, sự
đối kháng cũng tăng theo. Lúc đầu, còn là
những xầm xì, nay đã trở thành tranh luận.
Nếu cố gắng ép nghĩa, thì cũng có thể hiểu
lời khẳng định của Đức Giêsu theo
nghĩa ẩn dụ: ăn và uống đây chính là học
hỏi Lề Luật. Nhưng dựa theo giọng
điệu của Đức Giêsu, những lời
Người nói, người Do Thái đã hiểu rằng
phải hiểu mọi sự theo nghĩa chữ. Và theo
họ, như thế là phi lý: “ăn thịt người”
đã là một chuyện phi lý, lại còn “ăn thịt”
một kẻ tầm thường (houtos) như ông này! Chúng
ta gặp lại một hiểu lầm liên hệ
đến các điểm trung tâm của Kitô học Gioan (x.
2,19-21; 7,33-36; 8,21-22; 12,32-34; 13,36-38; 14,4-6; 16,16-19).
* Triển khai đề tài (53-56)
Đức Giêsu đã dùng ngôn ngữ hiện
thực, thậm chí sống sượng (“ăn”, trôgein)
để diễn tả tính hiện thực của bí tích
Thánh Thể. Để được thông phần vào
sự sống muôn đời, cần phải ăn
thịt Con Người và uống máu Người. Cùng
với thịt, bây giờ còn có máu nữa: Đức Giêsu
nhắc đến chính cái chết thảm khốc của
Người trên thập giá, được tượng
trưng bằng từ ngữ “máu”. Trong bánh, là thịt Người,
và trong rượu, là máu Người, Người sẽ
ban tặng chính bản thân Người như Đấng
đã trao ban mạng sống trên thập giá. Các tặng
phẩm Thánh Thể có nền tảng là chính cái chết
của Đức Giêsu trên thập giá, trong hành vi
Người hiến tặng mạng sống để cho
thế gian được sống, như bằng chứng
tối cao về tình yêu của Thiên Chúa đối với
loài người. Đức Giêsu, Đấng hiến
mạng sống trên thập giá, cũng ban thịt
Người như là của ăn và máu Người như
là của uống. Thịt và máu này là một bằng
chứng tối hậu về tình yêu của Người và
là bảo chứng về tình yêu mà Người chứng
tỏ khi hy sinh mạng sống.
Ai lấy đức tin mà đón nhận quà
tặng này, thì cũng tuyên xưng Đấng Chịu
Đóng Đinh với tình yêu của Người là
nguồn mạch ban sự sống, và sẽ
được thông phần vào sự sống của
Người, cũng là hiêp thông với Người: “Ai
ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống
muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống
lại vào ngày sau hết” (c. 54). Một lần nữa,
Đức Giêsu lại khẳng định rõ ràng rằng
sự sống đời đời và hiệp thông cá nhân
với Người chỉ là một. Với người
nào ăn thịt và uống máu Người, Đức Giêsu
hứa: “[Người ấy] được sống muôn
đời (c. 54)” và “người ấy … ở lại trong
tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (c. 56).
“Ở lại trong nhau” có nghĩa là trao đổi hỗ
tương trọn vẹn và kết hợp với nhau
chặt chẽ nhất. Dụ ngôn Cây nho và các cành sẽ làm
sáng tỏ ý nghĩa này hơn nữa (x. 15,1-17).
* Nền tảng của đề tài (57-58)
Chúa Cha chính là nguồn phát xuất ra mọi
sự: Ngài gửi Chúa Con đến với loài
người như là “bánh ban sự sống” (6,32.44),
nhưng cũng dẫn đưa loài người
đến với Đức Giêsu trong tư cách là “bánh ban
sự sống” (cc. 37.44.65). Thiên Chúa là Cha “hằng sống”,
là chính sự sống, là sức sống viên mãn không bao
giờ cạn kiệt, là Thiên Chúa hằng sống.
Đức Giêsu được sai phái đi bởi Chúa Cha
và có sự sống bởi Chúa Cha; Người cũng có
thể thông ban sự sống thần linh. Bánh ban sự
sống đến từ Chúa Cha hằng sống và nhận
từ Chúa Cha tất cả sức mạnh ban sự
sống. Bởi vì Người phát xuất từ Chúa Cha
hằng sống, Đức Giêsu là bánh ban sự sống, là
bánh từ trời xuống.
+ Kết
luận
Đức Giêsu đã đến để
cứu độ thế gian (Ga 3,17), Người là
Đấng “Cứu độ trần gian” (4,42).
Người đã hy sinh chính mạng sống, để
đưa lại sự sống cho thế gian. Do đó,
không ai bị loại trừ cả. Bí tích Thánh Thể là
bữa tiệc Thiên Chúa đặt để thết
đãi loài người. Bàn thờ dâng lễ cũng chính là
bàn tiệc, nơi thịt và máu Đức Kitô
được chuyển đến cho các thực khách làm
thức ăn thức uống. Mọi người
đều được mời gọi đến bàn
tiệc này. Lương thực là chính Đức Giêsu, mà
Người ban cho chúng ta, không được dùng
để duy trì sự sống trần gian hoặc ngăn
cản cái chết thể lý. Chính Đức Giêsu cũng
đã chết, khi trao hiến thịt và máu trên thập giá.
Nhưng cũng chính Người, là bánh ban sự sống,
sẽ ban sự sống muôn đời, sự sống này
không mai một đi trong cái chết và sẽ
được viên mãn trong ngày sống lại.
5.- Gợi ý suy
niệm
1. Nhận lấy Mình Máu thánh Đức Kitô,
trước tiên là nhận biết Chúa Cha là nguồn ban cho
chúng ta ơn cao trọng ấy. Đức Giêsu đã
nhiều lần nói với chúng ta về Chúa Cha như
về Đấng ban cho chúng ta tất cả mọi
sự. Chúa Cha sai Con đến với loài người
như là “bánh ban sự sống” (Ga 6,32.44), nhưng Chúa Cha
cũng dẫn đưa loài người đến
với Đức Giêsu, “bánh ban sự sống” (6,37.44.65).
Đức Giêsu cũng nói về Chúa Cha: “Ý của Cha tôi là
tất cả những ai thấy người Con và tin vào
người Con, thì được sống muôn đời,
và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết”
(6,40). Người cũng nói rằng tất cả
những gì Người ban như là ân huệ riêng, thì có
nền tảng là chính Chúa Cha (6,57). Thiên Chúa là Cha hằng
sống, là chính sự sống, là sinh lực viên mãn. Như
thế, khi đến với Tiệc Thánh Thể, chúng ta
cần nhớ rằng chính Chúa Cha đang dẫn chúng ta
đến để ban cho chúng ta lương thực là
chính Con Một của Ngài.
2. Nếu chúng ta ăn thịt và uống máu
Đức Giêsu, chúng ta đón nhận các quà tặng của
chính Người và tuyên xưng niềm tin rằng
Người hiện diện trong bánh và rượu đã
được truyền phép và chỉ nhờ Người,
Đấng được giương cao và chịu
đóng đinh, chúng ta mới có sự sống đời
đời. Khi đó, chúng ta cũng được mời
gọi nhận ra rằng Thịt và Máu Người chính là
bằng chứng cao cả nhất về tình yêu của Chúa
Cha và của chính Người đối với nhân
loại, đồng thời cũng là bảo chứng
về sự sống đời mà Người muốn ban
cho chúng ta.
3. Ăn thịt Đức Giêsu, hoặc
ăn chính Đức Giêsu, trong bí tích Thánh Thể, là cách
thức duy nhất giúp tránh được tình trạng suy
nhược thiêng liêng và cái chết. Ăn Đức Kitô,
chính là sống nhờ Đức Kitô. Nếu chúng ta
hiệp thông đều đặn vào sự sống
của Người, chúng ta đã được
đặt để trong tình trạng ân phúc, và tình
trạng này sẽ triển nở thành vinh quang trong cuộc
sống vĩnh cửu.
4. Đã hiệp thông vào thịt và máu
Đức Kitô, chúng ta trở thành “Đức Kitô toàn
thể”.
Do đó, chúng ta cũng phải trở thành “lương
thực” nuôi dưỡng anh chị em chúng ta. Mãi mãi chúng ta
sẽ thấy mình bất xứng, muốn co lại, khép
kín trên chính mình, nên cứ phải để cho Đức
Giêsu giúp biết hy sinh hầu phục vụ sự sống
của anh chị em mình. “Hồng ân Chúa Kitô và Thánh Thần
của Người mà chúng ta lãnh nhận trong việc
hiệp lễ hoàn tất cách sung mãn tuyệt vời
những ước muốn hợp nhất huynh đệ
đang ngự trị trong tâm hồn con người,
đồng thời nâng cao kinh nghiệm về tình huynh
đệ trong việc tham dự chung vào cùng một bàn
tiệc Thánh Thể đến một mức độ
vượt hẳn kinh nghiệm đồng bàn đơn
thường của con người” (Thông điệp Giáo
Hội từ bí tích Thánh Thể, 24).
|