BÀI LỜI CHÚA 8
ĐIỀU
RĂN THỨ TƯ :
THẢO KÍNH CHA MẸ
Với bài này, chúng ta suy nghĩ về điều
răn thứ 4 : Thảo kính cha mẹ, chúng ta sẽ tìm hiểu
bổn phận giữa hai bên : con cái đối với cha
mẹ, và cha mẹ đối với con cái. Bài Kinh Thánh hôm
nay...
Trích
sách Bà Rút
Bà
Nô-ê-mi, quê thành Bê-lem, bị nạn đói kém khiến bà
phải bỏ quê cha đất tổ, sang miền
ngoại giáo, là Mô-áp, kiếm kế sinh
nhai. Cùng đi với bà có chồng bà và hai con trai. Ở
đó lối mười năm, hai cậu trai lấy
vợ, một nàng tên Or-pa, nàng kia tên Rút. Chẳng bao lâu, chồng bà và hai con trai đều
chết tại đất lạ xứ người.
Thân góa bụa, không chỗ tựa nương, bà nhất
định trở về quê quán, bà Nô-ê-mi nói với hai nàng :
-
Thôi, các con hãy lui về nhà cha mẹ. Xin Thiên
Chúa Yavê chúc phúc, cho hai con mỗi người một tấm
chồng làm nơi nương tựa.
Nàng
Or-pa đành từ giã bà. Còn nàng Rút khăng
khăng một mực không chịu. Nàng nói
:
-
Mẹ đừng bắt con lìa mẹ... Không bao giờ ! Mẹ đi đâu, con
sẽ đi đó. Dân của mẹ
sẽ là dân của con. Thiên Chúa của mẹ sẽ là
Thiên Chúa của con. Mẹ sống ở đâu, con sẽ
sống ở đó, mẹ chết ở đâu, con cũng
sẽ chết ở đó và nguyện được chôn
ở đó !
Hai
mẹ con cảm động ôm nhau khóc!
Về
đến Bê-lem, ai cũng thương xót số phận
hẩm hiu của bà : ra đi đầy
đủ cả vợ chồng và hai con, nay về thì
chồng chết, hai con trai cũng chẳng còn, chỉ có
một nàng dâu. May thay ! Nàng dâu ấy
thật hiếu thảo, là một an
ủi lớn cho bà trong cảnh nghèo khổ. Để
giúp mẹ, cô Rút ngày ngày ra đồng mót lúa. Thiên Chúa
run dủi sao cho cô đến thửa ruộng của ông
Bô-át, một điền chủ giàu có và tốt bụng,
không những ông cho mót lúa, ông còn cho ăn uống với các
tớ gái của ông. Được ăn
no nê, nhớ đến mẹ ở nhà, cô để dành
một phần đem về cho mẹ. Ông Bô-át bảo
thợ gặt :
-
Các anh hãy để sót lại ít lượm lúa cho cô ấy mót !
Trước
lòng nhân hậu ấy, cô Rút ngạc nhiên hỏi
:
- Bởi đâu con được
ông nhân từ thương đoái đến con đây là
một người tha phương ?
Bô-át
đáp :
- Ấy, người ta đã
tường thuật cho ta mọi điều cư xử
tốt đẹp của con đối với mẹ
chồng, sau khi chồng con chết, đến nỗi con
đã đành bỏ quê hương, xứ sở mà theo giúp bà nơi xứ lạ quê
người. Xin Thiên Chúa trả công cho con, Đấng con
đã nhận làm Chúa mà thờ.
Hôm ấy, nàng mót lúa đến
chiều tà, đoạn đập lúa đã mót
được đến chừng một giạ. Vui mừng
hớn hở, nàng đem về cho mẹ, lại lấy
của ăn đã để dành ra cho
mẹ ăn. Cứ thế, cô Rút mót lúa
suốt cả mùa lúa mạch lẫn mùa lúa mì. Ngày kia,
bà Nô-ê-mi mới hé lộ cho con dâu biết :
-
Con à ! Ông Bô-át là bà con gần của
chồng con. Nay chồng con đã chết, chiếu theo luật Môsê, ông có nghĩa vụ phải
lấy con làm vợ để dòng dõi chồng con khỏi
mai một.
Rồi bà dạy cho Rút phải làm
những gì để ông Bô-át nhận nghĩa vụ
thừa thụ ấy. Cô Rút vâng nghe làm theo
đúng lời mẹ. Lại một lần nữa, ông
Bô-át khen nàng :
-
Xin Thiên Chúa chúc phúc cho con. Việc con bỏ quê cha
đất tổ để theo mẹ
chồng về đây, đã là một việc hiếu
nghĩa. Nay con làm việc thứ hai, còn lớn hơn, là
xin ta làm chồng thừa thụ cho con, để chồng
của con đã chết có kẻ nối dõi tông
đường. Con đã không màng lũ
trai tráng giàu có trong làng. Thật con là người
đức hạnh, cả dân thành Bê-lem đều biết
như thế ! Thôi con đừng
sợ, mọi điều con nói, ta sẽ làm cho con.
Ông
Bô-át đã giữ lời hứa, mọi thủ tục xong
xuôi, ông đã cưới cô về làm vợ, và cô sinh
được một con trai tên là Ô-béđ, sẽ là cha
của vua thánh Đavít. Sau này, Chúa Giêsu sẽ sinh ra trong dòng
họ này, vì thế, người ta xưng Ngài là Con vua
Đavít.
Như thế,
cô Rút đã được Thiên Chúa chúc lành và thưởng
công cho làm Tổ Mẫu của Chúa Giêsu.
* Đó là Lời Chúa ! - Tạ ơn Chúa !
Suy niệm Lời Chúa
Ca dao có câu :
“Mẹ chồng
ở với nàng dâu,
Như hai
cô ca sĩ có khen nhau bao giờ”.
Không khen nhau còn đỡ, mẹ chồng luôn tố
khổ, đối xử cay nghiệt với nàng dâu,
đến nỗi nhiều khi nàng dâu phải xách khăn gói
về nhà cha mẹ, hoặc coi mẹ chồng như lý
hình, làm đời mình biến thành hỏa ngục. Biết bao mẹ chồng có đạo hẳn hoi
mà cũng ác nghiệt, lỗi luật bác ái, yêu người
nặng nề như thế, mà vẫn cứ đi lễ,
rước lễ hàng ngày được. Ôi ! Lạ lùng thay!
Hôm nay, Kinh Thánh đã cho ta đọc một câu chuyện
có thật : gương bà mẹ
chồng phúc hậu, và con dâu hiếu nghĩa. Mẹ chồng như bà Nô-ê-mi thật là hiếm
có. Như khi bà khuyên con dâu trở về nhà cha mẹ,
để lấy chồng khác làm nơi nương
tựa, đó là bà muốn cho con dâu được hạnh
phúc. Đi theo bà, một thân góa bụa,
làm sao sinh sống? Bà lại lớn tuổi, chân tay đã ra yếu ớt, mỏi mệt...,
đáng lý bà cần có con dâu để săn sóc, đỡ
đần. Nhưng thôi, bà đành hi sinh,
để con dâu về lại nhà cha mẹ. Mặt
khác, theo quan niệm của người
Do thái thời đó, con gái đi lấy chồng mà không có
con là một sỉ nhục lớn. Cho nên, bà
khuyên con dâu về nhà cha mẹ, đi lấy chồng khác
để được nỗi vui mừng có con.
Cư xử như thế, bà
đã biết quên mình, mà chỉ nghĩ đến hạnh
phúc con cái. Đó là
một sự từ bỏ mình to tát, mà sau này, Chúa Giêsu
cũng đòi những ai làm môn đồ của Ngài : “Hãy từ
bỏ mình, vác thập giá mà theo chân Chúa”. Sống
trong đạo cũ, bà Nô-ê-mi đã thực hành
được điều trong đạo mới.
Phần cô Rút, cũng là dâu
hiếm có. Lòng hiếu thảo của nàng không thua gì lòng phúc
hậu của mẹ chồng. Nàng yêu
kính và phụng dưỡng mẹ chồng đến
độ bỏ cả quê cha đất tổ, cam sống
cực khổ với mẹ chồng, đi mót lúa nuôi
mẹ, được chút gì lại cất dành phần cho
mẹ. Thương mẹ đến bỏ
đạo mình để theo đạo mẹ
: “Thiên Chúa mẹ thờ
sẽ là Thiên Chúa của con !”. Và một
mực, cô nguyện sống chết chẳng rời
mẹ.
Sau khi nêu tấm gương sáng của hai mẹ con
cô Rút, bài Kinh Thánh còn cho thấy Thiên Chúa luôn chúc lành và
cứu giúp những con cái hiếu thảo. “Hoàng thiên
bất phụ hảo tâm nhân”, người đời còn
tin tưởng Thiên Chúa không nỡ phụ kẻ có lòng
tốt, huống hồ chúng ta, kẻ tin thờ Thiên Chúa là
Cha của mình. Do đó, bài Kinh Thánh cho thấy
: tất cả những gì cô Rút hi sinh để theo
mẹ và phụng dưỡng mẹ, Thiên Chúa cho cô lại
hết và đền bù gấp trăm, ngay từ
đời này. Như khi cô không ham sung sướng nơi
nhà cha mẹ đẻ, bằng lòng theo mẹ chồng
về nơi xứ lạ quê người, cực khổ
mót lúa, nên Chúa run dủi cho cô gặp ông điền chủ
tốt bụng, cho cô ăn uống, và để sót lúa cho
cô mót được nhiều. Vì cô hi sinh không về nhà cha
mẹ lấy chồng khác, để có niềm vui sinh con,
Chúa giúp cô gặp ông điền chủ giàu có cưới cô
làm vợ, không những cho cô sinh con cái, mà còn Tổ Mẫu
của một người không chỉ là thần
đồng, vĩ nhân lừng danh, mà là Chúa Giêsu, Con Chúa
trời đất, Ngài sẽ sinh ra trong dòng họ này : thật là vinh dự cao quí độc
nhất cho cô Rút. Cô đã từ bỏ các thần ngoại
giáo cô từng thờ từ thuở nhỏ nơi nhà cha mẹ ; vì thế, Thiên Chúa đã cho cô
nương bóng Thiên Chúa Hằng Sống và chân thật,
để được sống đời đời.
Gia đình chúng ta làm giờ
đền tạ hôm nay, xin Chúa thương đừng
để cảnh mẹ chồng nàng dâu tàn ác, cay nghiệt
xảy ra trong gia đình ta. Xin Chúa, Đấng đã chúc phúc cho hai mẹ con bà
Nô-ê-mi và Rút, cũng giúp ta ăn ở trên thuận
dưới hòa như vậy.
Tích truyện
Người
con có hiếu
Mẫn
Tử Khiên, hồi nhỏ, mẹ mất sớm, cha lấy
vợ kế sanh được hai con. Bà kế mẫu quí
con riêng mình, đầy đọa con chồng, cho ăn toàn
cơm thừa, canh cặn ; bắt làm quần quật
suốt ngày, còn la mắng đánh đập. Một
lần kia, nhân tiết đông lạnh
lẽo cắt da, bà chỉ cho con chồng mặc một
manh áo mỏng, còn sai đẩy xe cho cha và hai em. Lạnh
quá, Khiên sút tay, xe đổ... Khiên lo
lắng, tái mét, sợ về nhà sẽ bị mẹ ghẻ
đánh đập. Nhìn thấy con run lập cập
dưới trời giá buốt, mắt lơ láo vì
sợ..., người cha chợt tỉnh ngộ. Ông tỏ
ý muốn bỏ vợ kế, để khỏi làm khổ
cho con mình, nhưng Khiên đã đứng ra can cha rằng :
“Mẹ còn
(thì) chỉ một thân con,
Mẹ
đi (thì) luống để cơ hàn cả ba”.
Kết
quả là :
“Cha trông
xuống cũng sa lệ tủi,
(Người)
mẹ (kế) nghe rồi cũng đổi lòng xưa”.
{…{
{
|