BÀI
LỜI CHÚA 3
THIÊN
CHÚA LÀ ĐẤNG HẰNG SỐNG
Trích
sách Tiên tri Đa-ni-ên, ch.14
Dân
Ba-bi-lon có một tượng thần tên là Bel. Mỗi ngày,
người ta phải tốn 12 giạ bột mì, 40 con
cừu và 6 chum rượu làm đồ cúng. Vua cũng
thờ lạy nó, chỉ trừ có Đa-ni-ên thì không và
chỉ thờ lạy Thiên Chúa chân thật. Vua hỏi:
- Tại sao nhà ngươi không bái lạy thần Bel ?
Đa-ni-ên
thưa :
- Hạ thần không sùng bái
tượng thần do tay phàm làm ra, nhưng chỉ thờ
Thần Sống, Đấng dựng nên trời đất
và có chủ quyền trên mọi xác phàm.
- Sao ? Ngươi cho Bel không
phải là thần sống ư ? Ngươi lại không
thấy ngài ăn, ngài uống những gì mỗi ngày sao ?
Đa-ni-ên
cười và nói :
- Tâu Bệ hạ, đừng
lầm ! Vì thần tượng ấy bên trong là đất
thó, bên ngoài dát đồng, đã chẳng sống thì làm sao
ăn uống ?
Nổi giận,
vua triệu các thày cúng lại mà nói :
- Các ngươi mà không nói thật
với ta là ai ăn đồ cúng, thì các ngươi sẽ
phải chết. Còn nếu các ngươi chứng tỏ
được là chính Bel ăn, thì Đa-ni-ên sẽ
phải chết, vì y đã dám lộng ngôn đến Bel.
Mọi
người đến và đặt đồ cúng và
rượu lên bàn thờ của Bel. Vua sai đóng cửa và
niêm phong lại. Các thày cúng ra vẻ tự đắc, vì
họ đã đào bên dưới bàn thờ một ngõ bí
mật, qua ngõ đó, họ lẻn vào ban đêm ăn
sạch đồ cúng. Không ngờ Đa-ni-ên biết
được, nên khi các thày cúng đã ra, Đa-ni-ên sai các
tiểu đồng rắc tro khắp cả nội
điện. Đêm ấy, theo thói thường, các thày cúng
lẻn vào theo ngõ bí mật mà ăn uống hết sạch
mọi sự. Sáng hôm sau, Vua và Đa-ni-ên đến rất
sớm, bẻ ấn niêm phong, mở cửa vào nội
điện. Khi vua nhìn lên bàn thờ, ông kêu lên :
- Lạy thần Bel, ngài thật
lớn lao, và nơi ngài không có gì là gian dối !
Đa-ni-ên
cười, ông tâu vua :
- Xin
Bệ hạ nhìn xuống nền nhà mà coi những vết
chân kia là của ai ?
- Ta thấy vết chân đàn ông,
đàn bà và trẻ con.
Đó là vết
chân của bọn thày cúng và vợ con họ. Vua nổi
giận, truyền trói các kẻ ấy và bắt họ
chỉ cho vua ngõ bí mật họ đã dùng để đi
vào ăn uống của cúng. Nhà vua thấy mình cũng
bị bọn họ lừa, nên ra lệnh chém hết.
Rồi vua trao tượng thần Bel cho tiên tri Đa-ni-ên
phá hủy và triệt hạ luôn cả Đền Thờ
của nó... Xảy ra là khi dân Ba-bi-lon nghe tin, họ rất
căm tức, tập họp nhau lại trước
đền vua và la hét:
- Xin nộp Đa-ni-ên cho chúng tôi !
Chẳng vậy, chúng tôi sẽ giết ngài và cả gia
đình ngài nữa.
Bất
đắc dĩ, vua phải nộp Đa-ni-ên cho họ. Họ
tống Đa-ni-ên vào hầm sư tử bị đói lâu
ngày để ăn thịt Đa-ni-ên... Vua rất
thương tiếc Đa-ni-ên. Ngày thứ bảy, vua
đến trên hầm ngó vào, thì lạ lùng thay ! nhà tiên tri
còn sống và bình an ngồi giữa bầy sư tử. Vua
sửng sốt và vui mừng kêu lớn tiếng :
- Người thật lớn lao,
lạy Thiên Chúa của Đa-ni-ên thờ ! Ngoài
Người, không có thần nào khác nữa !
Vua
đã sai kéo Đa-ni-ên ra, còn những kẻ mưu hãm
hại vị tiên tri, vua cho tống vào hầm. Lập
tức, chúng bị sư tử nghiến ngấu tan xác
trước sự chứng kiến của nhà vua.
* Đó là Lời Chúa ! - Tạ
ơn Chúa !
Suy niệm Lời Chúa
Ta hãy nhớ lời Đa-ni-ên tâu vua : “Hạ thần không sùng bái các thần tượng do
tay người phàm làm ra, bên trong là đất thó, bên ngoài tô
sơn, trét màu, đã không sống thì làm sao ăn uống?”.
Vậy ra các thần nọ, thần kia chỉ là chuyện
bày vẽ, tin nhảm, người đời đúc
tượng ra, đem lên bàn thờ phong thần, phong thánh,
rồi quì xuống xì xụp vái lậy...
Đã chỉ là những tượng đất,
gỗ đá không hơn không kém, không có sự sống, làm
sao có thể nghe ta van vái mà phù hộ ta được ? Hãy
nghe tiên tri Ysaia chế diễu : “Kẻ
kia đi kiếm gỗ trên rừng về, nó lấy
một phần để sưởi, một phần
đun bếp, nấu bánh, rồi sau khi ăn no nhậu
say, sưởi ấm rồi, nó lấy gỗ thừa
tạc một pho tượng làm thần, rồi sụp
lạy bái thờ, lâm râm khấn nguyện, hắn nói : ‘Xin
cứu lấy tôi, vì Người là thần của tôi’. Và
tiên tri kết luận : Kẻ ấy thật là đứa
không chút hiểu biết, vì đi sụp lạy một súc
gỗ !” (Ys 44.14-19).
Nếu họ nói rằng : chúng tôi đâu có sụp
lạy một khúc gỗ, chúng tôi thờ thần sống,
mà pho tượng chỉ là biểu hiệu tượng
trưng ; thì ta có thể hỏi vặn lại rằng :
vậy thì thần sống ấy đâu rồi, ở
đâu bây giờ ? Kìa xem các vị thần thời xưa mà
người ta coi như thần sống : nào thần Bel,
thần Đa-gôn, dân Ai cập thờ thần rắn, bên
Ca-na-an thờ thần Ba-an, nữ thần A-tac-tê, bên Hi
lạp thờ thần Giu-pi-te, Mer-cu-rô, vv... Nếu các
thần ấy đều là thần sống, thì chúng đâu
rồi ? Tại sao ngày nay chính các dân ấy cũng chẳng
còn ai thờ các thần ấy nữa. Lạ chưa?
Nếu các thần ấy tài giỏi và quyền phép, sao không
cứu các dân đó, mà để họ tiêu diệt mất
tích trên địa cầu ? Và nếu dân nào còn sống sót
đến ngày nay, chẳng hạn như nước Ba
Tư, Iran, Irắc, là con cháu của các dân As-sy-ri và Ba-bi-lon
ngày xưa, sao ngày nay không thấy các dân ấy thờ các
thần mà tổ tiên họ đã thờ ngày xưa ? Vậy
ra, các thần ấy chết hết cả rồi, và
cũng chẳng thấy hoạt động nữa?
Còn Thiên Chúa của chúng ta mới thật là “Thần
sống, Đấng dựng nên đất trời và có
chủ quyền trên mọi xác phàm” như Đa-ni-ên nói trên
kia, tức là Người vẫn sống, đang sống và
cứ sẽ sống mãi. Người phán : “Ta là Đấng Hằng Sống”. Người
vẫn luôn hoạt động :
1/ Người tạo dựng
đất trời và vẫn ra tay bảo tồn trời
đất này cùng các sinh vật, trong đó có loài
người chúng ta.
2/ Người sai Con Một của
Người xuống thế, và vì thương ta, truyền
cho Con Một ấy phải hi sinh chịu chết
để đền tội ta.
3/ Người đang hoạt
động ban ơn cho ta được cứu rỗi.
4/ Người lại sai Đức
Maria từ trời xuống, năm 1858 ở Lộ
Đức, năm 1917 ở Fatima và nhiều nơi khác
(đây không cần kể ra) để nhắn nhủ chúng
ta ăn năn đền tội, cải thiện
đời sống, từ bỏ tội lỗi để
khỏi chết mất linh hồn, sa hỏa ngục, và
để thế giới được hòa bình hạnh
phúc, tránh khỏi tai họa chiến tranh.
5/ Người đang chờ
đợi ta nơi trường sinh vĩnh phúc !!!
Vị thần này, chúng ta ngày nay và con cháu chúng ta mãi
đến tận thế sẽ luôn thờ phượng,
kính tin Người.
Vậy,
chúng ta hãy vui mừng và hi vọng. Đừng bị đui
mù, thiếu hiểu biết mà chạy đi van vái các
thần khác những lúc ta gặp khó khăn, bệnh
tật, gian nan, nghèo đói... Các thần giả trá đó
chẳng qua là do ma quỉ bày đặt ra, làm ta mắc
mưu mà bỏ Thiên Chúa! Những lúc nguy khó ấy, ta
phải nhớ lại lời Kinh Thánh xác quyết, qua
miệng tiên tri Ysaia xưa :
5 “Ta
là ĐỨC CHÚA, không còn chúa nào khác ;
chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta.
21 Ngoài
Ta ra, không có thần nào nữa,
chẳng có thần công minh cứu độ, ngoại
trừ Ta.
(cho nên chỉ đến
cầu cứu với một mình Chúa mà thôi):
22 Nào muôn
dân khắp cõi địa cầu,
hãy hướng về Ta, thì các ngươi sẽ
được cứu độ,
vì Ta là Thiên Chúa, chẳng còn chúa nào khác.”
(Ys 45.5,21-22).
Và trong Tân Ước,
còn được khẳng định lại rõ ràng :
“Ta biết
rằng: trên thế gian, tà thần không có; mà thần
cũng không có ngoài Thiên Chúa độc nhất. 5Vì mặc
dầu người ta cho là có những thần ở trên
trời hay dưới đất, - quả thực (loài người
đã bày ra) thần cũng lắm mà chúa cũng nhiều - 6nhưng
đối với ta, thì chỉ có một Thiên Chúa là Cha, do
tự Người mà có mọi sự, và vì Người mà
ta được có. Và chỉ có một Chúa, Đức Giêsu
Kitô, nhờ Ngài mà có mọi sự, và cũng nhờ Ngài mà
ta (được có).” (1 Cor 8.4-6)
Tích truyện
Hà Bá lấy vợ
Tích truyện này trích trong cuốn Đông Chu liệt
quốc, hồi 85, cho thấy các tên đồng cốt bày
ra chuyện thần nọ thần kia để “hốt
bạc”.
Vua
nước Ngụy sai tướng Tây Môn Báo ra trấn
ở Nghiệp Đô. Đến nơi, ông thấy dân
cư thưa thớt, phong cảnh tiêu điều. Hỏi
thăm các bậc phụ lão, ông được biết :
Dân chúng khổ sở bỏ đi nơi khác, vì một
nỗi Hà Bá lấy vợ. Ở đấy có con sông,
thần Hà Bá thích vợ đẹp, mỗi năm bắt
nạp một người con gái, nếu không thần dâng
nước, cửa nhà, ruộng vườn ngập
hết. Tây Môn Báo hỏi :
- Tại sao biết
được Hà Bá lấy vợ ?
Các phụ
lão nói :
- Bọn đồng cốt
ứng lên nói như vậy. Dân làng mỗi năm phải
chịu mấy trăm vạn quan tiền dùng làm phí tổn
trong việc ấy. Khổ nữa là nhà nào có con gái
đẹp thì một là có nhiều tiền đút lót,
bọn đồng cốt tha cho, đi tìm người con
gái nhà khác ; ai nghèo thì sợ mất con phải bỏ xứ
mà đi... Chúng lập một nhà trai cung ở mé sông, mua
lễ vật cúng tế, chọn ngày tốt cho
người con gái tắm gội sạch sẽ,
đặt ngồi trên bè cỏ, thả trôi giữa sông, trôi
vài dặm thì bị chìm xuống nước...
Biết
đầu đuôi câu chuyện, Tây Môn Báo nhất
định phá hủy tục lệ dã man ấy. Hôm ấy,
ông đội mũ mão chỉnh tề, có lính đi hầu,
thân hành ra tận bờ sông. Dân chúng đến xem đông
nghịt. Bọn hào lão dẫn ra một mụ đồng
cốt đã già, theo sau chừng vài mươi tên
đệ tử, khăn áo sặc sỡ. Tây Môn Báo gọi
bà đồng ấy lại và nói :
- Ta muốn xem mặt vợ Hà Bá
kỳ này như thế nào.
Người
con gái được dẫn đến, nàng không
đẹp lắm, đang khóc lóc nước mắt giàn
giụa và sợ sệt. Môn Báo nói với bà cốt :
- Cô gái này không đẹp lắm,
chắc Hà Bá không chịu lấy làm vợ. Ta phiền bà
xuống nói với Hà Bá rằng quan Thái Thú muốn kén cho Hà
Bá người vợ tuyệt đẹp. Vì vậy, xin
hẹn vài hôm nữa.
Dứt
lời, ông sai kẻ tả hữu bắt bà cốt ném
xuống sông. Ai nấy trông thấy đều sợ hãi.
Ông ngồi yên chờ một lúc rồi nói :
- Bà đồng này đã già, làm
không được việc ta sai. Vậy phải có một
người đệ tử xuống đó thúc hối.
Tiếp
đó, một người đệ tử bị ném
xuống sông. Cứ thế liên tiếp 3 người.
Cuối cùng, ông quay lại nhóm hào lão thường chia chác
tiền nong trong vụ này, ông nói :
- Bọn ấy đều là
đàn bà, đi đứng chậm chạp, nói năng không
nên lời. Ta phiền các ngươi xuống đó
thuật lại ý kiến ta với Hà Bá xem thế nào.
Nói xong, truyền
quân bắt một hào lão trong bọn. Cả bọn
đều sợ hãi, quì lạy và nói :
- Ấy là bà đồng tìm cách
phỉnh lừa dân chúng. Xin tha cho chúng tôi! Đừng
bắt xuống đó mà oan mạng.
Môn Báo
trợn mắt hét :
- Thế thì từ lâu nay, các
ngươi đã phỉnh phờ dân chúng, sống trên
xương máu của mọi người, tội ấy
đáng chết.
Cả
bọn đều sụp lạy xin tha. Môn Báo nói :
- Bà đồng cốt đã
chết rồi. Từ nay về sau, ai còn nói đến Hà
Bá lấy vợ, ta sẽ bắt người ấy ném
xuống sông.
Từ bấy giờ, dân chúng được sống
yên ổn, khỏi ai phỉnh phờ, bóc lột. Những
dân đi trốn, hay tin, lại trở về. Môn Báo lại
khiến dân đào kênh lạch, khai thông nước trong vùng
không còn đọng lại nữa, nên chẳng bao giờ
bị ngập lụt, chứ có phải do Hà Bá nào dâng lên
đâu. Ruộng nương nhờ những kênh lạch
ấy mà có nước cầy bừa, lúa má được
mùa, cỏ cây tốt tươi, hương hoa thơm
nức.
™™…˜˜
|