Người
chạnh lòng thương
(Suy
niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Trong bố cục của tin mừng
Marcô, đoạn 6:30-34 được chia thành hai và
thuộc hai trình thuât kế tiếp nhau. Những câu 6:30-32
là kết luận của câu chuyện nhóm Mười Hai
được sai đi rao giảng (6:6b-13); trong khi
những câu 6:33-34
được xem là nhập đề của câu chuyện
Chúa Giêsu cho năm ngàn người ăn bánh no nê (6:32-44). Giữa hai đoạn ngắn
nầy có những liên kết chặt chẽ: các tông
đồ nhận chỉ thị là rút lui vào “nơi hoang
vắng” để nghỉ ngơi (c. 31), và họ đi
thuyền vào nơi ấy (cc. 32-33); “dân chúng đông
đảo” xuất hiện trong câu 31, sẽ kéo đến
nơi hoang vắng và Chúa Giêsu sẽ chạnh lòng
thương họ (c. 33.34). Ngoài ra, còn có một sự diễn
tiến liên tục giữa hai phần: các tông đồ
nhận chỉ thị đi vào nơi hoang vắng (c. 31),
họ ra đi (c. 32) và họ đến nơi (c. 34).
Như thế, đoạn 6:30-34 đóng vai trò liên kết
hai trình thuật 6:6b-13 và 6:33-44, chuyển tiếp từ vai
trò được sai đi đến vai trò làm mục
tử học từ Chúa Giêsu là Mục Tử duy nhất
của dân Người.
Khi các tông đồ trở về,
sứ mạng đầu tiên của họ kể như
chấm dứt. Ở câu 6:7 họ “đến cùng” Chúa Giêsu
theo lời mời gọi của Người để
được sai đi. Ở đây, họ lại
“đến cùng” Người (6:30) để thuật cho
Người những việc họ đã làm. Marcô đã nói
đến những việc của họ: rao giảng
để cho những người nghe có thể sám hối,
trừ quỉ, chữa nhiều bệnh tật (x. 6:12-13).
Chỉ Luca ghi nhận kết quả của những
việc họ đã làm là họ vui mừng vô cùng vì đã
trừ được quỉ nhân danh Chúa Giêsu (x. Lc 10:17).
Trước khi Chúa Giêsu lên trời, các tông đồ sẽ
lãnh nhận lần nữa mệnh lệnh đi rao
giảng và cả sức mạnh và quyền năng từ
Người để nhân danh Người thực hiện
những điều mà hôm nay chỉ là thực tập (x.
16:17-18). Như thế, họ hoàn toàn lệ thuộc vào
Người trong ơn gọi và sứ mạng của
họ.
Về phần dân chúng, họ đông
đảo và tuôn đến từ các thành (c. 33; x. 1:33.45).
Lần nầy họ tìm đến không chỉ Chúa Giêsu mà
cả các tông đồ, đến nỗi họ không có
thời giờ để ăn (c. 31; x. 1:45). Những hành
động của họ được mô tả cách
sống động trong câu 33: “thấy”, “nhận ra”, “cùng
nhau chạy” và “đến trước” diễn tả
sự khao khát và nhu cầu của họ. Động
từ “nhận ra”, “nhận biết” (c. 33) chỉ sự
hiểu thấu thâm sâu bên trong một người hoặc
một sự kiện (x. 2:8; 5:30). Dân chúng đã nhận ra
Chúa Giêsu và các tông đồ của Người là ai và
đó là lý do họ tìm đến các ngài (x. 6:33.54).
Tương ứng với những hành
động của dân chúng là những hành động
của Chúa Giêsu. Người “thấy họ” khi
bước xuống khỏi thuyền (c. 34); như thế
bắt gặp cái nhìn của họ. Cái “thấy” của
Người, hơn cả việc nhận ra bằng
thị giác một sự kiện, thấu hiểu
tường tận tình huống bên trong của nó. Khi
thấy một ai, Người hiểu ngay người
ấy cần gì để được nên hoàn hảo
hơn; do đó, Người làm điều gì đó cho
Người ấy (x. 1:16.19; 2:14; 6:34). Ở đây,
Người thấy dân chúng như một đàn chiên không
có người chăn chiên, nên Người chạnh lòng
thương (c. 34; 8:2). Động từ “chạnh lòng
thương” xuất phát từ chữ “ruột gan”
(splagkhnon), ngày xưa được dùng để chỉ
nơi phát sinh nhưng tình cảm, cảm xúc, thay vì “con tim”
trong cách dùng ngày nay. Do đó, có thể nói là khi thấy dân
chúng đông đảo, Người xót dạ. Việc
Người sẽ làm cho dân chúng là giảng dạy (c. 34) và
cho họ bánh ăn no nê (6:35-44).
Chúa Giêsu là Mục Tử. Người
nuôi dưỡng đàn chiên của Người bằng giáo
huấn và bánh hằng sống của mình máu Người.
Người đặt nhóm tông đồ làm mục tử
và dạy cho họ làm sao có thể có được gan
ruột mục tử của Người.
|