Đức
Giêsu chạnh lòng thương – JKN.
Câu
hỏi gợi ý:
1. Cảm xúc của Đức Giêsu ra sao
khi thấy dân chúng «như bầy chiên không người
chăn dắt»? Cảm xúc ấy có dẫn Ngài đến
hành động không? Nếu ta đứng trước
cảnh dân chúng như thế thì cảm xúc và phản
ứng của ta thế nào? Ta có hành động như Ngài
không?
2. Mục tử tốt và mục tử
xấu khác nhau chỗ nào? Khác nhau ở lời nói hay ở
hành động? Mục tử xấu có thể rao giảng
thật hay, và tỏ ra thật hiền lành đạo
mạo nhưng lại có thể sẵn sàng làm ngơ
trước đau khổ của đồng loại không?
Có thể căn cứ vào vẻ hiền lành đạo
mạo để chắc chắn rằng đó là mục
tử tốt không?
3. Người mục tử tốt lành có
thể không cảm xúc trước những đau khổ
của đàn chiên, sẵn sàng im lặng trước
những bất công ngay trước mắt mình, hoặc
khoanh tay đứng nhìn bất động trước
những bàn tay giơ lên cầu cứu mình không?
Suy tư
gợi ý:
1. Khả năng «chạnh lòng
thương» và hy sinh cho dân chúng
Bài đọc 1 nói về những
mục tử xấu và về lời Thiên Chúa hứa
hẹn sẽ ban cho dân những mục tử tốt. Vì
thế, qua bài Tin Mừng được ghép với bài
đọc I, Giáo Hội muốn nói tới khả năng
yêu thương của người mục tử,
đặc biệt khả năng «chạnh lòng
thương» như Đức Giêsu trước những
đau khổ của dân chúng, khả năng hy sinh
để cứu khổ và đem lại hạnh phúc cho
họ.
Bài Tin Mừng cho thấy sự đói
khát chân lý của dân chúng. Họ chẳng những nghèo
về vật chất, mà còn nghèo về kiến thức,
về khả năng suy nghĩ, về văn hóa, về tâm
linh, vì không ai chỉ dẫn dạy bảo họ. Khi
thấy Đức Giêsu giảng dạy «như một
Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh
sư» (Mt 7,29), họ theo Ngài rất đông. Sau khi rao
giảng và dạy dỗ họ đã lâu, Đức Giêsu và
các môn đệ cảm thấy mệt và cần nghỉ
ngơi, nên phải «lánh riêng ra đến một nơi
thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút». Nhưng dân chúng
vẫn còn ham muốn được nghe Ngài dạy
bảo, nên không để cho Ngài và các môn đệ nghỉ
ngơi, mà lại tiếp tục bám sát các ngài đến
nỗi các ngài «chẳng có thì giờ ăn uống nữa».
Trước tình cảnh này, đáng lẽ Đức Giêsu
từ chối họ vì Ngài và các môn đệ cần
phải nghỉ ngơi và cầu nguyện, đó là
những nhu cầu hết sức chính đáng của các
ngài. Nhưng Ngài không làm như vậy mà lại «bắt
đầu dạy dỗ họ nhiều điều».
Tại sao? Vì Ngài luôn luôn «chạnh lòng thương»
trước nỗi cùng khốn của họ, «họ
như bầy chiên không người chăn dắt». Tình
thương bao la đã khiến Ngài trở nên rất
nhạy cảm trước nhu cầu cũng như
nỗi thống khổ của mọi người. Tình
thương ấy đòi buộc Ngài phải làm cho họ
một cái gì.
2. Mọi mục tử cần có
khả năng «chạnh lòng thương»
Ước gì mọi mục tử - là
những người muốn noi gương Đức
Giêsu một cách đặc biệt và triệt để
hơn những Kitô hữu bình thường khác - cũng có
khả năng «chạnh lòng thương» trước
những nỗi cùng khốn của những «con chiên» mình
chăn dắt. «Chạnh lòng thương» để
sẵn sàng hy sinh cho họ: chẳng hạn hy sinh giấc
nghỉ trưa, giờ đọc kinh nguyện, thậm
chí cả giờ nghỉ đêm… khi họ cần mình giúp
đỡ. Tôi có quen và rất cảm phục một linh
mục nọ: khi có một bệnh nhân ở một
bệnh viện nào kêu ngài đến xức dầu
hoặc giải tội, ngay cả vào ban đêm hay khi
trời mưa, thì ngài đều sẵn sàng lên
đường đến với họ. Họ không
biết kêu ai ngoài ngài trong những trường hợp
đặc biệt ấy, vì hầu hết các linh mục
khác gần bệnh viện đều từ chối.
Thế rồi người này nói với ngài kia về
sự sẵn sàng của ngài, nên về sau người ta
chỉ còn biết đến với Ngài, dù họ ở
những bệnh viện khá xa. Điều khiến tôi
phục ngài sát đất là khả năng «chạnh lòng thương»
của Ngài qua nhiều năm tháng vẫn không suy giảm,
khiến ngài luôn luôn sẵn sàng đến với những
ai đau khổ, dù sức khỏe ngài không được
tốt lắm. Và nhất là vì ngài luôn luôn rất bận:
ngài là cha phó một xứ lớn, và cũng là một nhà
nghiên cứu, viết lách, đồng thời còn bận làm
một số công tác trong giáo phận. Tôi hằng cầu
nguyện cho Giáo Hội Việt Nam có được
nhiều linh mục như ngài!
3. Đời biết bao cảnh khổ
đau khiến ta «chạnh lòng thương»
Đức Phật nói: «Đời là
bể khổ». Quả thật, đời người có
biết bao nỗi khổ, nhất là trong những
đất nước theo những thể chế phi nhân,
độc tài: dân chúng nghèo nàn, lầm than, khổ sở
trong một xã hội đầy dẫy áp bức, bất
công. Trong những xã hội như thế, người
mục tử - vốn là hiện thân của Đức
Giêsu - cần phải có khả năng «chạnh lòng
thương» hơn bất kỳ ở đâu khác. Trong xã
hội Do-thái xưa, Đức Giêsu đi tới đâu mà
gặp những người đau khổ cần cứu
giúp thì Ngài luôn luôn ra tay, không bao giờ từ chối:
«Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới
đó» (Cv 10,38).
Hiện nay, Ngài không còn ở trần
gian để «thi ân giáng phúc» như thế nữa, nhưng
Ngài đã lập nên một đội ngũ mục tử
- gồm những người tình nguyện tiếp nối
sứ mạng «mục tử» của Ngài - để thay
Ngài và nhân danh Ngài «thi ân giáng phúc» cho tất cả những
ai đau khổ. Nhờ vậy, Ngài vẫn có thể rao
giảng chân lý, nói những lời an ủi mọi
người qua miệng các mục tử ấy. Ngài
vẫn có thể lắng nghe mọi người bằng
đôi tai của các mục tử. Ngài vẫn yêu
thương bằng con tim của họ. Ngài vẫn
phục vụ bằng đôi tay họ. Ngài vẫn
đến với mọi người bằng đôi chân
của họ. Ngài làm tất cả những điều
tốt đẹp cho mọi người bằng bản
thân của họ. Các mục tử chính là hiện thân của
Ngài giữa lòng thế giới đầy đau khổ
này. Nếu mọi mục tử của Ngài đều
thật sự sống đúng điều họ đã cam
kết khi dấn thân làm mục tử thì dân chúng sẽ
bớt được biết bao đau khổ!
4. Những «mục tử ghẻ»
Nhưng than ôi, nếu thời nào
cũng có những «con chiên ghẻ» thì thời nào cũng có
những «mục tử ghẻ» như ngôn sứ Giêrêmia mô
tả trong bài đọc I. Những «mục tử ghẻ»
là những mục tử có trái tim bằng đá chứ không
phải bằng thịt (x. Ed 36,26), không có khả năng
«chạnh lòng thương» như Đức Giêsu. Vì
thế, họ sẵn sàng làm ngơ và lạnh lùng quay
mặt đi trước những bất hạnh cùng
cực của người khác, trước những cánh
tay đưa lên van xin họ cứu giúp một cách
tuyệt vọng. Họ có thể điềm nhiên nhìn
những cảnh bất công xảy ra nhan nhản
trước mắt cho chiên của mình mà trong lòng không
cảm thấy mình phải làm một cái gì, hay phải nói
lên một lời nào để cải thiện những
cảnh ấy. Họ sợ bị phiền hà đến
bản thân nên sẵn sàng tỏ ra vô trách nhiệm
trước mọi cảnh áp bức xảy đến
với chiên của mình. Họ được Đức
Giêsu mô tả như những kẻ chăn chiên thuê: «Người
làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không
thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ
chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán
loạn» (Ga 10,12).
Tệ hơn nữa, nhiều «mục
tử ghẻ» lại còn vì quyền lợi của mình mà
sẵn sàng ngấm ngầm đứng về phe kẻ ác,
bênh vực kẻ gây bất công. Những mục tử này
có thể là thầy dạy về đức tin, về tình
thương. Họ tuyên xưng đức tin ngoài miệng
rất mạnh mẽ, lên án gắt gao những ai chỉ
tuyên xưng khác với mình một chút. Nhưng khi gặp
những tình huống cần phải chứng tỏ
đức tin thực tế của mình, người ta
mới thấy đức tin ấy chỉ là thứ
«đức tin chết» (Gc 2,26; x. 2,17), hay đức tin
ngoài vỏ, rỗng ruột. Những bài giảng về
tình thương của họ nghe rất tuyệt vời,
nhưng khi cần phải chứng tỏ bằng thực
tế chính tình thương của mình, người ta
mới thấy tình thương của họ chỉ là tình
thương ngoài miệng lưỡi. Trong một xã
hội phi nhân và bất công, «đàn chiên» của những
«mục tử ghẻ» ấy nhiều khi phải mang hai
lần ách: ách đời thường vốn đã
nặng lại còn phải gánh thêm ách đạo nặng
không kém, vì thế họ trở nên bất hạnh gấp
đôi những kẻ bất hạnh khác. Trái lại,
một mục tử tốt lành luôn luôn làm cho mọi
người đến với mình cảm thấy
được trút bớt gánh nặng, hoặc cảm
thấy mạnh sức hơn để có thể nhấc
bổng gánh nặng của mình. Kitô giáo đúng nghĩa
phải đem lại giải phóng chứ không hề
chất thêm gánh nặng cho con người. Mọi mục
tử phải nói được như Đức Giêsu: «Tất
cả những ai đang vất vả mang gánh nặng
nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ bồi dưỡng
cho» (Mt 11,28).
5. Số phận của những
mục tử
Nếu những mục tử tốt
lành sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và ân
thưởng, thì những mục tử xấu sẽ
bị Thiên Chúa ra án phạt nghiêm khắc. Trong bài đọc
I, ngôn sứ Giêrêmia nói về số phận các mục
tử xấu ấy: «Khốn thay những mục tử
làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc
và tan tác. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác
của các ngươi mà trừng phạt các ngươi»
(Gr 23,1-2). Ngôn sứ Dacaria cũng viết: «Ta sẽ bừng
bừng nổi giận đánh phạt các mục tử»
(Dc 10,3); «Hãy nghe tiếng rú của các mục tử, vì
vẻ huy hoàng của chúng đã tiêu tan» (11,3).
Những mục tử xấu đáng
trừng phạt. Vì thế, nếu không có khả năng
«chạnh lòng thương» trước những đau
khổ của con người, tốt hơn không nên làm
mục tử. Đã nhận sứ mạng làm mục
tử thì phải biết yêu thương đàn chiên.
Những mục tử không thương đàn chiên, bỏ
mặc chiên cho sói ăn thịt, hoặc còn hùa theo những
kẻ gian ác để hại đàn chiên thì có thể
được ưu đãi, trọng vọng,
được sung sướng, được
hưởng nhiều ân huệ và đặc quyền
đặc lợi mà những kẻ bóc lột đàn áp
chiên dành cho. Nhưng rốt cuộc cuộc đời
họ sẽ kết thúc trong đau khổ, họ sẽ
mang tiếng xấu muôn đời. Những vết nhơ,
những vết đen trong lịch sử cuộc đời
họ làm sao có thể rửa sạch được? Danh
thơm tồn tại mãi, mà tiếng xấu cũng không bao
giờ phai. Người đời vẫn thường
nói: «Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng
vẫn còn trơ trơ».
Cầu
nguyện
Lạy
Cha, trong xã hội và thế giới hiện nay có rất
nhiều mục tử, nhiều nơi thậm chí dư
thừa, nhưng mục tử tốt biết «chạnh
lòng thương» và biết hy sinh cho đàn chiên thì vẫn
luôn luôn thiếu. Dân chúng đau khổ không cần những
mục tử vô tâm, họ chỉ cần và rất cần
những mục tử biết «chạnh lòng thương».
Xin Cha hãy ban cho chúng con những mục tử tốt ấy
như Cha đã hứa qua miệng ngôn sứ Giêrêmia (Gr
23,4). Amen.
|