ĐĐức
Giêsu, các Tông Đồ và dân chúng
(Chú
giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.-
Ngữ cảnh
Đức Giêsu đã gọi Nhóm
Mười Hai và sai đi từng hai người một
(6,7.12). Bản văn hôm nay tường thuật việc
các ông trở về báo cáo công việc đã làm với
Thầy. Để chu toàn được sứ mạng
Đức Giêsu giao là loan báo Tin Mừng về Triều
Đại Thiên Chúa và đuổi được ma quỷ,
các ông phải chấp nhận định mệnh của
Gioan Tẩy Giả (đó là lý do khiến tác giả đã
tháp truyện Gioan bị trảm quyết vào giữa
đoạn văn về sai phái đi và trở về báo
cáo kết quả; x. 6,17-29).
Trong đoạn văn này, chúng ta
gặp lại những yếu tố quen thuộc:
Đức Giêsu là Thầy nhắc nhở các môn đệ
(c. 31), rút về nơi thanh vắng (1,35.45), đám đông
kéo tới, chiếc thuyền (2,2; 3,7t.20; 4,1t). Sự
kiện cả Nhóm không có giờ ăn uống đã
được nói đến ở 3,20.
Nếu đặt bản văn này trong
tác phẩm Mc, ta thấy đây chính là phần mở cho
biến cố Đức Giêsu làm cho bánh hóa nhiều mà nuôi
đám đông dân chúng (6,34-44).
2.-
Bố cục
Bản
văn này có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu và các Tông Đồ
(6,30-32);
2) Đức Giêsu và đám đông dân
chúng (6,33-34).
3.- Vài
điểm chú giải
- Các Tông Đồ tụ họp quanh
Đức Giêsu (30): Không
phải là chuyện tình cờ nếu khi đi rao giảng
về, Nhóm Mười Hai được nhận danh
hiệu “tông đồ” (và trong TM II thì chỉ ở đây
mà thôi). Danh hiệu này tăng cường thêm cho dây liên
kết giữa đoạn văn này với đoạn
văn kể lại việc Đức Giêsu sai phái các ông
đi rao giảng. Chính là trong tư cách “tông đồ”,
nghĩa là những người được Đức
Giêsu giao phó sứ mạng tiếp nối công trình của
Người, mà các ông tái xuất hiện.
- và kể lại … mọi điều
các ông đã làm … đã dạy: Họ báo cáo đúng theo hai phương diện
của hoạt động được giao (x. 6,12-13):
rao giảng – trừ quỷ và chữa bệnh (x. thêm 6,7-11;
3,14-15). Hai phương diện này đã được minh
hoạ trong hoạt động của Đức Giêsu
(1,21-27; ch. 4–5; 6,1-6). Sứ vụ của Nhóm Mười Hai
được đồng hoá với sứ vụ của
Đức Giêsu và nối dài sứ vụ của
Người.
Đây là chỗ duy nhất mà tác giả
xác định là Nhóm Mười Hai “đã giảng dạy”
(edidaxan). Ngài thường dùng động từ “công
bố” để nói về các ông này hơn (kêryssein: 3,14;
6,12; 13,10; 14,9). Trong từ vựng của ngài, có một
sắc thái phân biệt hai từ này: việc công bố
đi trước việc giảng dạy (so sánh 1,14 và 21).
Tuy nhiên, không nên đối lập hai từ này y như
thể là hai sinh hoạt hoàn toàn tách biệt; khó mà làm
việc này nếu không có việc kia. Dù sao, lời nhắc
đến việc giảng dạy của Nhóm Mười
Hai ở đây vẫn đáng lưu ý, vì tại đây tác
giả đang nêu bật hoạt động giảng
dạy của Đức Giêsu (6,6b.34). Ngài muốn nói:
hoạt động giảng dạy của Đức Giêsu
được nối tiếp nơi hoạt động
giảng dạy của Nhóm Mười Hai.
- Anh em hãy lánh riêng ra đến một
nơi thanh vắng, mà nghỉ ngơi đôi chút (31): Câu này hẳn là có ý giải thích
việc ra đi đến nơi thanh vắng để
rồi tại đó, xảy ra cuộc gặp gỡ
với năm ngàn người. Câu này hẳn cũng cho phép
liên kết việc sai phái Nhóm Mười Hai và cuộc
trở về của họ với cuộc gặp gỡ
của vị Mục Tử với đàn chiên bơ vơ.
Tuy nhiên, câu này cũng có những chi tiết đáng quan tâm:
một đàng, sự tha thiết được nêu
bật bằng việc lặp lại: “lánh riêng ra,
đến một nơi thanh vắng” (cc. 31-32). “Lánh riêng
ra” (kat’idian) là một nét riêng của Mc (x. 7,33; 4,34; 9,2.28;
13,2). Đức Giêsu tạo cơ hội cho Nhóm
Mười Hai được “ở với Người”
(3,14), xa đám đông, và để được sai
đi.
Đàng khác, lời đề nghị
của Đức Giêsu hàm ý Người muốn các tông
đồ có cùng một nhịp sinh hoạt (hoạt
động nơi dân chúng – sống cô tịch) như
Người. Các ông được mời bắt
chước Người tìm nơi thanh vắng mà nghỉ
ngơi, mà cầu nguyện, sau khi đã hoạt động
rao giảng. Phải chăng đây là điều tác
giả muốn diễn tả qua dụ ngôn hạt
giống tự mọc một mình (4,26-29)?
- chạnh lòng thương (34): Động từ splanchnizomai (x.
1,41) diễn tả một tâm tình sâu xa động chạm
đến lòng dạ (ta splanchna) và được biểu
lộ ra bằng một hành vi đặc biệt chiếu
cố đến một ai đó (x. Mt 18,27; Lc 15,20; 10,33).
- vì họ như bầy chiên không
người chăn dắt: Câu này gợi nhớ đến hoàn cảnh nguy
hiểm hoặc đáng thương của dân Chúa khi
thiếu vắng thủ lãnh (Ds 27,17), bị phó mặc cho
kẻ thù xâu xé (1 V 22,17; 2 Sb 18,16), bị vua chúa coi
thường và bỏ rơi (Ed 34,5), lang thang, lạc lõng,
bơ vơ không người chăn dắt (Dcr 10,2-3; 13,7).
Dường như bản văn Mc gần với Ds 27 và Ed
34 hơn, vừa về giọng văn vừa về
đề tài. Trong Ds 27, chính Môsê, trước khi chết,
đã xin Thiên Chúa ban một thủ lãnh thay thế ngài
dẫn dắt cộng đồng dân Chúa đi trong hoang
địa; thế mà bản văn Mc đây đang
nhắc nhớ đến Môsê và các lương thực
nhiệm mầu của Ít-ra-en trong hoang địa. Còn
lời sấm Ed 34 thì loan báo rằng chính Thiên Chúa sẽ
săn sóc đoàn chiên Ngài (c. 11), cho chúng được
ăn trong đồng cỏ mầu mỡ (c. 14), cho chúng
nghỉ ngơi (cc. 14-15) và đặt một mục tử
dẫn dắt chúng (c. 23). Xem Tv 22/23.
Nhiều chi tiết trong bài tường
thuật liên hệ đến những đoạn văn
đó: sự ân cần của Đức Giêsu, sự
nghỉ ngơi mà Người muốn bảo đảm
cho môn đệ, đám đông qui tụ lại, bữa
ăn trên cỏ xanh, lương thực dồi dào… Đây
là những gợi ý cho hiểu Đức Giêsu chính là
vị Mục tử thiên sai. Khi nhận xét rằng
Đức Giêsu “chạnh lòng thương”, bản văn
đã đề cao phẩm chất của vị Mục
tử thiên sai.
- và Người bắt đầu
dạy dỗ họ nhiều điều: Điều đáng ngạc nhiên là
Đức Giêsu giảng dạy để bày tỏ lòng
thương xót! Các bản văn Mt và Lc dường như
hợp lý hơn: Đức Giêsu chữa các bệnh nhân
hoặc nếu có giảng dạy thì không phải vì thương
xót. Vả lại công việc của người mục
tử không phải là dạy dỗ, mà là nuôi dưỡng
đoàn chiên.
Thật ra, ở đây cũng như
tại những nơi khác (x. 1,21; 2,13; 6,2; 10,1), tuy không
cảm thấy phải nói về nội dung của lời
Đức Giêsu giảng dạy, Mc vẫn sử dụng
danh từ “lời giảng dạy” và động từ
“giảng dạy” nhiều hơn Mt. Bởi vì điều
ngài quan tâm không phải là nội dung lời giảng, mà là
chính hoạt động giảng dạy, vì hoạt
động này biểu lộ chân tính của Đức
Giêsu. Bằng lời Đức Giêsu giảng dạy và
đánh tan quyền lực của Satan, Thiên Chúa hành
động để thiết lập Triều Đại
của Ngài. Vậy, trong tư cách Mục tử thiên sai, khi
giảng dạy, Đức Giêsu chứng tỏ uy quyền.
Đúng như lời Thiên Chúa
đã hứa từ xa xưa, nay Đức Giêsu đến
để dùng lời nói mà qui tụ, để làm no
thoả đàn chiên bơ vơ.
Thật ra, có nhiều bản văn Kinh
Thánh nối kết việc mạc khải Lời Chúa
với ân ban các lương thực thiên quốc (x.
trường hợp Môsê: Kn 16,28; Nkm 9,13-15; Tv 118/119,131.176; Tv
94/95,7-8.11; TM Ga nối bài tường thuật về
việc hoá bánh ra nhiều (6,1-15) với diễn từ
về Bánh ban sự sống (6,26-58).
Cũng có thể giải thích bản
văn Mc dựa theo sinh hoạt Giáo Hội: hẳn là Mc
đã dựa vào nếp sinh hoạt phụng vụ cộng
đoàn, trong đó việc giảng dạy và bẻ bánh
đi đôi với nhau và hỗ trợ cho nhau (x. Cv 2,42;
20,7; Lc 24,25-32).
4.- Ý
nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu và các tông đồ
(30-32)
Cần phải hiểu cách thức
Đức Giêsu xử sự với dân chúng trong quan hệ
với sự ân cần Người tỏ ra với các môn
đệ.
Trong TM Mc, quan hệ của Đức
Giêsu với đám đông dân chúng luôn luôn xảy ra có sự
chứng kiến của Nhóm Mười Hai hoặc của
một vài người của Nhóm. Song song với việc
giảng dạy cho dân chúng, Đức Giêsu có dành cho Nhóm
Mười Hai một lối giảng dạy riêng (4,1-34; x.
cc. 10-25.34).
Kể từ sau khi các môn đệ
đi sứ vụ trở về (6,30), Đức Giêsu
đã làm một loạt những hành vi và ban những
lời giảng dạy dành
riêng cho họ. Nếu
Đức Giêsu có giảng dạy và nuôi dưỡng
đám đông, thì theo TM II, dấu lạ này lại
được dành cho các môn đệ, chỉ có
điều là họ không hiểu thôi (6,52). Nếu
Đức Giêsu có tranh luận về sự thanh sạch
của lương thực và về truyền thống
với người Pharisêu (7,1-16), chính là để soi sáng
cho các môn đệ đang ở riêng một nơi (7,17-23).
Vào cuối phần đoạn nói về các cuộc hoá bánh
ra nhiều, những lời Người trách các môn
đệ (8,14-21) chứng tỏ đấy là một
mạc khải được dành riêng cho các ông. Câu
truyện Đức Giêsu chữa một người mù
(8,22-26) được đặt giữa những lời
trách mắng này và lời tuyên xưng đức tin của
Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô”, sẽ là một
bước dứt khoát hướng về chỗ hiểu
biết Người chính xác hơn.
* Đức Giêsu và đám đông dân
chúng (33-34)
Theo Mc, Đức Giêsu có sức thu hút
phi thường đối với dân chúng ngay khi
Người xuất hiện (1,33). Người có rút lui vào
nơi thanh vắng cũng không tránh khỏi dân chúng (1,45).
Dân chúng từ khắp nơi tuốn về, chen chúc, xô
đẩy Người, khiến Người không còn thì
giờ để ăn uống với môn đệ
nữa (2,2.13; 3,7-9.20; 5,21.24; 6,54-56; 9,15; 10,1.46). Dọc theo
quyển Tin Mừng, ta thấy dân chúng luôn luôn tỏ ra có
thiện cảm với Người, cho đến khi
họ bị các thượng tế lèo lái trong cuộc xử
án tại toà Philatô (15,11). Không bao giờ Đức Giêsu xua
đuổi họ, cho dù đôi khi Người tìm cách tránh
họ (7,24.33; 9,30). Có khi Người còn gọi họ
lại (7,14; 8,34). Sự hiện diện hoặc vắng
mặt của đám đông không phải là không có ý
nghĩa. Theo Mc, cách thức Đức Giêsu đối
xử với đám đông biểu lộ một
phương diện cốt yếu thuộc sứ mạng
Người. Đó đặc biệt là trường
hợp ở đây, khi mà đám đông kéo đến
bất ngờ, và Đức Giêsu thì muốn tránh.
+ Kết
luận
“Tin Mừng Đức Giêsu Kitô” là
hoạt động Thiên Chúa đang được thể
hiện giữa loài người hôm nay. Tin Mừng này
nhắm đạt đến mọi người, nhờ
sứ vụ các tông đồ. Xuyên qua sứ vụ này,
chính lòng thương xót của Đức Kitô, đức
ái của Người, chiếu cố đến mọi
người. Khi suy gẫm về sự hiệp nhất
giữa Đức Giêsu và các môn đệ ở thời
kỳ khai nguyên Tin Mừng, Mc chạm đến thực
tại sâu xa của Giáo Hội, trách nhiệm của Giáo
Hội, đòi hỏi mà Giáo Hội phải đáp ứng
bằng sứ vụ loan báo Tin Mừng.
5.-
Gợi ý suy niệm
1. Các Tông Đồ “tụ họp” chung
quanh Thầy và đánh giá về công việc với
Người chính là hình ảnh của cộng đoàn
vẫn liên lạc thường xuyên với Đức Chúa
của mình. Người ta có thể làm một công việc
mà trước đó không xác định được là
việc gì chăng? Và khi đã làm xong công việc
được giao phó, người ấy lại không
phải đến gặp ông chủ vào báo cáo về công
việc đó sao? Đây là một lưu ý được
gửi đến cho cộng đoàn Kitô hữu: coi
chừng có thể lấy những quyết định mà
không quy chiếu về Lời của Thầy. Bất
cứ khi nào cộng đoàn Kitô hữu lấy các quyết
định mà không quy chiếu về Tin Mừng, họ
rất có thể sẽ theo lô-gích loài người và chỉ
nhìn công việc dưới những nhãn hiệu như là uy
tín, thành công và danh giá.
2. Khi khuyên các môn đệ đi
đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi,
Đức Giêsu đã làm một cử chỉ rất nhân
bản, Người đã tỏ ra là một vị
Thầy quan tâm đến mọi phương diện
thuộc đời sống các môn đệ: có
phương diện thiêng liêng, và cũng có những nhu
cầu thể lý. Đấy là một tấm gương
cho tất cả những ai có trách nhiệm về những
người khác. Ngoài ra, trong Cựu Ước, lòng từ
bi thương xót là một phẩm tính của Thiên Chúa; qua
thái độ của Đức Giêsu, ta thấy
được lòng thương cảm của Thiên Chúa
đối với loài người. Bất cứ ai có vai
trò “mục tử” (cha xứ, bề trên, cha mẹ…)
đều được mời gọi bắt
chước Đức Giêsu về phương diện
này.
3. Đức Giêsu thương xót đám
đông, và việc Người đã làm là ngồi
xuống, lắng nghe họ và cố gắng hiểu các
vấn đề của họ, rồi dùng thì giờ mà
giảng dạy họ. Khi đưa Nhóm Mười Hai vào
sứ vụ này, Đức Giêsu đã thật vất
vả mới mở mắt các ông ra được, thì
chắc hẳn không người môn đệ nào hôm nay
muốn thực tập đời Tông Đồ mà lại
miễn chuẩn cho mình khỏi phải ở với
Đức Giêsu, nhìn ngắm Người, bước theo
Người và cứ thường xuyên bị Người
ngăn cản trong những kế hoạch theo lô-gích loài
người.
|