Loan báo
Tin Mừng.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Lịch sử truyền giáo
ở Việt Nam
ghi lại tên tuổi hai vị giáo sĩ truyền giáo
nổi tiếng: Đức Cha Lambert de la Motte và Đức
Cha Francois Pallu. Vào thế kỷ 17, Toà Thánh đã đặt
hai giám mục này làm Giám Quản Tông Toà đầu tiên ở
Việt Nam: Đức Cha Lambert de la Motte phụ trách
Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào Nam) kiêm Camquchia, Lào,
Thái Lan. Đức Cha Francois Pallu phụ trách
Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra Bắc) kiêm Trung
Quốc.
Đức Cha Francois Pallu là
người pháp, từ bỏ gia đình và quê hương
vào ngày 3.1.1662, ngài dùng tàu buồm vượt qua Địa
Trung Hải rồi men theo đường bộ một
thời gian lâu dài, qua hết các nước Trung Đông,
Vịnh Ba Tư, Ấn Độ mới đến Thái
Lan. Năm 1670, trên đường đến miền
Bắc Việt Nam, lúc đi ngang qua Huế, thuyền
của ngài bị một cơn bão đánh giạt vào
Philippin. Ngài bị người Tây Ban Nha bắt bỏ tù
rồi đem giải về Tây Ban Nha.Với sự can
thiệp của Toà Thánh, Tây Ban Nha trả tự do cho
Đức Cha. Tuy phải trải qua nhiều gian khổ,
nhưng tim ngài vẫn luôn sáng chói một
niềm hy vọng. Ngài nói: “Tôi phải đem Tin Mừng
đến tận Trung Quốc”. Vừa được
trả tự do, ngài tìm mọi cách đến Bắc Kinh,
và cuối cùng thân xác ngài được chôn vùi tại
đây theo như ngài mơ ước. một câu nói của ngài đáng cho chúng ta ghi
nhớ: “Tôi tự cho mình hạnh phúc nếu có thể
đem xương cốt mình bắc một nhịp
cầu tới Bắc Việt và tới Trung Quốc!”.
Thưa anh
chị em, cuộc đời truyền giáo của
Đức Cha Francois Pallu tại đất nước ta
cũng như biết bao nhà truyền giáo khác trên thế
giới gắn liền với đời tông đồ và cái
chết tử đạo của mười hai Tông
Đồ. Chính Chúa Giêsu tuyển chọn Nhóm Mười Hai
để nhóm này ở lại bên Ngài và để
được huấn luyện. Mục tiêu
của huấn luyện là để các ông trở nên
những người được Chúa Giêsu sai đi rao
giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Ngay từ khi còn ở trần gian, Chúa Giêsu đã
thấy mình đứng trước một cánh đồng
mênh mông, có biết bao nhiêu người cần
được nghe Tin Mừng cứu độ. Ngài
thấy mình cần những cộng tác viên nhiệt thành cho
công cuộc truyền bá Tin Mừng. Chúa Giêsu đã trao
tất cả những gì mình có cho Nhóm Mười Hai:
quyền rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ. Hoạt động của các ông là một sự
nối dài và mở rộng sứ vụ của mình Chúa
Giêsu.
Chia tay Thầy Giêsu, Nhóm Mười Hai lên
đường. Đâu là hành trang của
người tông đồ? Chúa Giêsu trả lời:
“Không được mang gì khi đi đường”. Không bánh trái, không bao bì, không tiền bạc, không
mặc hai áo. Như thế, các ông lên
đường với tất cả sự nhẹ nhàng.
Càng nhẹ nhàng thì càng dễ thi hành sứ mạng và càng
được tự do hơn. Tuy nhiên sự
nhẹ nhàng này thật là một thách đố. Khi
người tông đồ phải lên đường
với hai bàn tay trắng, không có lộ phí, không có
lương thực dự trữ, lúc đó họ phải
hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa và
lòng tốt của tha nhân. Ra đi tay
trắng như thế là chấp nhận mọi bất
trắc có thể xẩy ra dọc đường,
nhưng cũng là đặt mình thường xuyên
dưới sự quan phòng của Chúa. Chính
Chúa lo mọi sự cho tôi, để tôi chuyên tâm lo việc
của Chúa. Sự an toàn của tôi
không dựa vào những phương tiện trần
thế, nhưng vào chính Thiên Chúa.
Chúa Giêsu cũng dạy cho các ông biết thái độ
phải có khi đến với dân chúng. Nếu
được đón tiếp thì hãy ở lại, không tìm
một nhà khác tiện nghi hơn. Người
tông đồ cần có đời sống nghèo, đón
nhận những gì được trao cho mình với lòng
biết ơn. Nếu không
được đón tiếp thì cũng không nên nản
lòng. Cử chỉ giũ chân ra đi cho
thấy người tông đồ chẳng hề muốn
lấy đi điều gì ở nơi đã từ
chối đón tiếp mình.
Anh chị em thân mến, hôm nay, Chúa Giêsu Phục Sinh
cũng sai chúng ta đến với thế giới. Thế giới
không phải là chuyện xa xôi. Thế
giới là nơi chúng ta đang sống, đang làm việc.
Thế giới là gia đình, bạn bè,
là trường học, cơ quan, xí nghiệp. Thế giới là nơi giải trí, nơi du
lịch, bãi biển. Thế giới là
sách báo, phim ảnh, video, quảng cáo. Thế
giới là mọi ngành khoa học, nghệ thuật, văn
chương. Chúng ta ở trong thế
giới và Chúa muốn sai chúng ta đi vào thế giới
của mình trong tư cách là người Kitô hữu. Kitô hữu là người có khả năng
biến đổi thế giới mình đang sống
để nó biến thành thế giới của Thiên Chúa.
Các Tông Đồ đã rao giảng, đã
mời gọi con người hoán cải để đón
nhận Nước Thiên Chúa gần bên. Chúng ta cả
những gì phá huỷ phẩm giá con người, loại
trừ sự sống của Thiên Chúa, đều phải
bị loại trừ. Kitô hữu là
người phải hoán cải trước khi mời
gọi người khác hoán cải, phải tỉnh
thức trước khi đánh thức người khác,
phải thuộc về Chúa trước khi trừ quỷ.
Thế giới hôm nay cũng là một thế giới
bị thương tích, cần được chữa lành. Bệnh tật
của thân xác và bệnh tật của tinh thần vẫn
hoành hành trên thế giới. Con người đau
khổ vì mất lòng tin, lo âu, tuyệt vọng. Con
người nô lệ cho chính những sản phẩm
của mình. Tiến bộ khoa học kỹ thuật
lại đặt ra những vấn đề mới mà tự
sức con người không giải quyết
được. Kitô hữu là người tiếp nối
sứ mạng của Chúa Giêsu, băng bó vết
thương của thế giới bằng sự hiện
diện đầy yêu thương.
Chúng ta không rõ nếu hôm nay Chúa Phục Sinh chỉ
thị cho chúng ta, thì Ngài sẽ nói gì trước khi ngài sai
chúng ta ra đi. Chắc Ngài sẽ nói khác với đoạn Tin
Mừng hôm nay, những ý chính vẫn không thay đổi.
Ngài dạy chúng ta tin cậy và quyền năng của Thánh
Linh hơn là vào khả năng và phương tiện
tự nhiên của mình. Ngài nhắc nhở
chúng ta tín thác và Cha trên trời và Chuyển cầu cầu
nguyện, vì chẳng ai có thể rao giảng Tin Mừng
nếu không có tình bạn thân thết với Chúa.
Mỗi
Thánh Lễ Chúa Giêsu tập họp chúng ta lại thành
một cộng đoàn môn đệ của Ngài, để
rồi sai chúng ta ra đi loan truyền Tin Mừng Phục
Sinh của Ngài cho mọi người ở mọi nơi.
Tin Mừng này chỉ có thể được công bố
bằng cuộc sống làm chứng của mỗi
người chúng ta và của Giáo Hội, một cuộc
sống trung thành với Chúa Giêsu nghèo khó và chịu đóng
đinh thập giá. Đó là bằng chứng
đáng tin của tình thương cứu độ mọi
người.
|