Lời
dặn dò cần thiết – Lm Giuse Nguyễn Hữu
An
Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai. Ngài
cho các ông sống bên cạnh mình. Ngài trực tiếp
huấn luyện, bằng cách cho các môn đệ
được nghe những lời Ngài giảng,
được xem những việc Ngài làm. Sau đó, Ngài sai
các môn đệ ra đi thực tập truyền giáo. Hai
động từ “gọi, sai đi” diễn tả rõ
rệt ơn gọi của các Tông đồ. Trước
khi các học trò lên đường, Chúa Giêsu căn dặn
nhiều điều như là hành trang cần thiết cho
sứ vụ tông đồ. M. Quesnel ví những lời
đó như “một loại thủ bản, một cẩm
nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo” (“Comment lire un
évangile?”, Seuil, trang 103).
1. Hành trang người tông đồ
a. Hành trang đi đường: cây
gậy, đôi dép, không mang hai áo. Ý nghĩa ở đây là
những kẻ được sai đi phải là những
con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng
nề với của cải vật chất để có
thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ
vụ. Các môn đệ được tham dự vào ba
chức năng tư tế, tiên tri và vương
đế của Chúa Giêsu. Cây gậy của vương
đế, đôi dép của tiên tri, và tấm áo của
tư tế.
- Cây gậy
Cây gậy trong tay biểu trưng cho
sức mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi
hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ra đi với niềm
tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin
mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa
lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống,
xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui
các thế lực sự dữ.
- Đôi dép
Đôi dép là hình ảnh luôn lên
đường. Truyền giáo là ra đi. Đi để
mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân.
Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha
đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.
- Tấm áo
Người ra đi mang áo là mặc
lấy tâm tình Chúa Giêsu. Nhờ đó, các môn đệ làm cho
cuộc đời mình trở nên của lễ hiến dâng
hợp với hiến lễ Chúa Kitô. Chúa Giêsu trao cho các ông
những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng,
quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đó là
hành trang quan trọng hàng đầu. Mọi hành trang khác
chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang
mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi
đường.Với những hành trang như thế, Chúa
Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt
động tông đồ không do tài lực của con
người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa.
b. Phương tiện sinh sống: không
được mang lương thực, bao bị, tiền
bạc. Hành trình như vậy đặt các người
được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc.
Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ
đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi đâu Chúa
muốn.
c. Tương lai bấp bênh. Chúa Giêsu
cũng không giấu diếm họ điều gì. Con
đường truyền giáo là con đường
đầy chông gai, lắm gian khó. Cũng như Ngài, họ
đón nhận sự rủi ro bị từ chối,
bị xua đuổi. Cần phải hy sinh bản thân.
Đó là thân phận kẻ được gọi,
được sai đi. Ra đi mà không gì bảo
đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng
đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công cũng không
thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng
đắng cay. Bởi lẽ như lời Thánh phaolô nòi:
Tôi trồng, Apollô tưới, Chúa cho mọc lên.
Người truyền giáo luôn bị cám
dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm
bản thân, an nghĩ trong những thành công tạm
bợ...và không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng
luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt
sẽ nuối tiếc bấy nhiêu. Vì vậy, Chúa muốn
các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi. Lên đường
bao giờ cũng đẹp. Hạnh phúc chỉ dành cho ai
dám lên đường tìm kiếm.
2. Phương thức hoạt
động:”từng hai người một”
Khi sai đi “từng hai người
một “, Chúa Giêsu mong các ông hợp tác và liên đới
với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó
khăn “Hai người có giá trị hơn một, nếu
họ ngã, người này đỡ người kia
dậy” (Gv 4,9). Hai người làm việc chung, nâng
đỡ nhau biểu lộ tình yêu thương nhau như
một dấu chỉ đặc trưng của môn
đệ của Chúa (x. Ga 13,35). Dấu chỉ này là
một chứng từ sống động và lôi cuốn
người khác. Trong Công vụ Tông đồ, các nhà
truyền giáo thường lên đường với nhau
“từng hai người một”: Phêrô đi với Gioan (Cv
3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv
15,22)... Hoạt động tông đồ luôn là tạo thành
nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng
về tình yêu. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm
đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo
Hội. Cuộc sống yêu thương trong cộng
đoàn vừa là dấu hiệu của người môn
đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng sống
động, hùng hồn nhất về Tin Mừng.
3. Tinh thần tông đồ là ra đi
Trao “Sứ vụ” cho các môn đệ,
Chúa Giêsu không bảo các ông “phải giảng điều gì”.
Ngài chỉ căn dặn các ông những chi tiết
“phải sống”. Đối với Chúa Giêsu, ra đi làm
chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn
chứng tá bằng lời nói. Suốt mấy năm ra
mặt với đời để thi hành sứ vụ,
Chúa Giêsu không ngừng đi rày đây mai đó. Ngài luôn ngang
dọc trên mọi nẻo đường đất
nước để truyền giáo. Từ hội
đường này đến hội đường khác
(Mt 4,23). Đôi khi ở ngoài trời, ở ngoài
đường. Trên một sườn núi cũng có (Mt
5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc
6,30-34). Có khi “mệt mỏi vì đường sá”, một
mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với
người phụ nữ đến kín nước (Ga
4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo
quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền, thuyền
của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí. Ngài
ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà
giảng dạy dân chúng” (Lc 5,3). Chúa Giêsu thực hiện một
cuộc hành trình liên miên. Theo ngôn ngữ của Phúc âm Marcô
chương 1: Ngài bỏ Nazareth để
đến gặp Gioan bên sông Giođan, rồi đến
Galilê, dọc theo bờ biển Galilê, và Ngài đi rao
giảng trong các hội đường khắp xứ
Galilê. Trong chương 2: ít lâu sau, Ngài lại về
Capharnaum... Ngài ngang qua đồng lúa ... Cứ đi và
đi như vậy mãi.
Chính giữa khung cảnh đường
dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng
dạy của Chúa bao giờ cũng khởi hứng từ
một hoàn cảnh cuộc sống. Các hình ảnh cuộc
sống đời thường gần gũi tràn ngập
trong lời rao giảng. Cánh huệ mọc ngoài
đồng. Đàn chim sẻ đang bay. Một đám
ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời.
Một mẻ cá lớn bên biển hồ. Những hạt
giống người nông phu gieo vương vãi trên
đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá.
Một đàn cừu người chăn lùa về buổi
chiều tối. Từng tảng đá, từng hạt
sạn người ta nhặt từ một đống muối
để vất đi. Từng con còng người đánh
cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá... Việc
thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa
gọi, vừa nhận... Như các môn đệ
đầu tiên (Mc 1,16-20). Chúa Giêsu không dừng lại, yên
nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí
người ta dành sẵn cho mình. Sau một ngày thành công
rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn: “Sáng
đến, Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng
đi tìm Ngài và đến nơi Ngài,họ cố giữ
Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ.
Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem Tin mừng
Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” (Lc 4,42-43).
Như thế, suốt đời Chúa
Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có nhà
thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường
trên thế giới Ngài đang sống. Chúa Giêsu bị
bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn
Giệtsêmani hoang vắng. Bị điệu đến
Hanna rồi Caipha. Từ toà đạo qua toà đời.
Hết bị điệu đến dinh Philatô lại
bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa
trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một
đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết
bao nhiêu dặm đường trên con đường “công
lý” của loài người.
Bị kết án thập hình. Hai tay dang
rộng, bị đóng đinh trên thập giá. Tảng
đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). “Lính canh phòng
cẩn mật, niêm phong tảng đá lại” (Mt
27,62-66).Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không dừng chân
cả trong cái chết. Ngày thứ ba Ngài sống lại,
vượt cái chết qua sự sống bất diệt. Sau
khi phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi,
đến với với các môn đệ, cũng cố
lòng tin và sai họ ra đi loan báo Tin mừng. Hoàn thành
sứ mạng, “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (Mc
16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội “Thầy ở
cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. (Mt
28,20).
Chúa Giêsu gọi các môn đệ và
“thiết lập Nhóm Mười Hai” để họ ở
với Ngài và để Ngài sai đi. Giáo hội tiếp
nối sứ vụ được sai đi, ra đi
đến với muôn dân. Ra đi là dấn thân đi
đến gặp gỡ mọi người với tinh
thần đơn sơ, từ bỏ và tự do,
để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn
cứu độ.
Cuộc đời người Kitô
hữu cứ phải ra đi không ngơi nghĩ. Ra
khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái
đang có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi
cái mình đang là để đi tới cái mình phải là.
Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành
trình của con tim.
Đường
đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi.
Nhưng
khó vì lòng người ngại núi e sông.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa
đã ra đi từ trời cao xuống đất
thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng
con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa
vào khả năng bản thân hay vào những phương
tiện trần thế. Xin Chúa giúp chúng con chỉ biết
cậy dựa vào Chúa. Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng
con. Amen.
|