Không bánh mì, cũng chẳng
tiền túi
(Suy
niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Thế)
* Vài hàng sơ lược
-
Sau khi bị người đồng
hương Na-za-réth của mình chối từ (Mc 6, 1-6a),
thay vì bực mình giận dữ, Giêsu vẫn thản nhiên và
Ngài tiếp tục lên đường đến các làng
chung quanh để giảng dạy. Sau đó, Ngài sai các môn
đệ ra đi thi hành sứ mạng giảng dạy
như Ngài.
-
Đoạn này có thể chia như sau: (1)
6b-7: Chuyển tiếp (câu 6b) và dẫn vào câu chuyện. (2)
8-9: Chỉ thị các môn đệ phải trang bị
những gì khi ra đi. (3) 10-11: Chỉ thị các môn
đệ về phản ứng trước sự đón
tiếp của người khác. (4) 12-13: việc rao
giảng và chữa bệnh của các môn đệ.
-
Trong cái nhìn nhất lãm, thì Luca nêu đoạn
9, 1-6, tương hợp với đoạn phúc âm của
Mác-cô ở đây. Còn trong Mát-thêu thì cũng nêu lên trong Mt 10,
1-15. Theo Helmut Klein thì Luca đã lấy lại đoạn
phúc âm này của Mác-cô. Tuy nhiên, có một vài sự khác
biệt: Luca không đề cập đến việc
đi giày trong chỉ thị sai đi của Giêsu. Ngoài ra,
Luca nêu bật ý nghĩa và nội dung của việc Giêsu
sai đi, trong khi Mác-cô thì lại không. Ý nghĩa nằm trong
câu: “Người sai các ông đi rao giảng Nước
Thiên Chúa” (Lc 9,2). So sánh với Mát-thêu thì có khá nhiều
sự khác biệt. Mát-thêu nêu tên 12 tông đồ (câu 2-4).
Đích đến cũng được Mát-thêu nêu rõ:
“Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà
Ít-ra-en” (câu 6). Ý nghĩa việc sai đi của Mát-thêu thì
gần giống như Luca.
* Suy niệm
“Rồi Người đi các làng chung quanh mà
giảng dạy.”
Các làng chung quanh ở đây là các làng
nằm chung quanh Na-za-réth. Trong mạch văn của Mác-cô,
thì việc giảng dạy của Giêsu ở đây có ý
nghĩa hướng dẫn các môn đệ vào trong sứ
mạng rao giảng sắp tới.
“Người gọi Nhóm Mười Hai
lại và bắt đầu sai đi từng hai
người một. Người ban cho các ông quyền
trừ quỷ.”
Nhóm Mười Hai mà Giêsu thành lập
(ss. Mc 3,14) giờ đây được Giêsu gọi lại
và bắt đầu sai họ đi. Sứ mạng
thực sự bắt đầu. Sau những ngày
được kêu gọi để ở lại với
Giêsu (Mc 3, 14), để đi sâu vào tương quan với
Giêsu, để học biết tinh thần của Ngài, thì
giờ đây có lẽ các môn đệ đã phần nào
“chín chắn”, nên Giêsu sai các ông lên đường. Ngài sai
các ông đi từng hai người một. Tại sao
lại từng hai người một? Theo các nhà chú
giải thì trước hết liên quan đến việc
làm chứng của người Do-thái. Chỉ có một
người làm chứng sẽ không có tác dụng gì cả,
hay nói mạnh hơn là không phải là người làm
chứng. Nếu chỉ có một người làm chứng
thì không thế dẫn tới quyết định trong tòa
án, mà cần phải có hai người hay ba người làm
chứng: “Một nhân chứng duy nhất không thể
đứng lên buộc tội một người về
bất cứ một tội một lỗi nào; về
bất cứ lỗi nào người ấy phạm,
phải căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay
căn cứ vào lời của ba nhân chứng, sự
việc mới được cứu xét.” (Đnl 19,15)
Ngoài ra, trong Thánh Kinh còn có một số
đoạn nhắc đến cặp “hai người”,
như trong cuộc tranh luận với người
Pha-ri-sêu về bản thân của Người, Giêsu đã
nói: “Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời
chứng của hai người là chứng thật. Tôi làm
chứng cho chính mình, và Chúa Cha là Đấng đã sai tôi
cũng làm chứng cho tôi.” (Ga 8,17-18), hay ở Mt 18,19:
“Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới
đất, hai người trong anh em hợp lời cầu
xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng
ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba
người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy
ở đấy, giữa họ.”
Như vậy, việc làm chứng
của “hai người” còn có ý nghĩa là làm cho sự
thật được sáng tỏ, sự thật về
chính Đức Kitô, con Thiên Chúa, đến trần gian
để rao giảng tin mừng Nước Thiên Chúa cho
mọi người. Sự thật về tin mừng này
sẽ được tỏ lộ một cách thật rõ
ràng và chất lượng hơn, khi có hai người cùng
đi chung để rao giảng và loan báo.
Có lẽ đây là điều quan
trọng trong sứ mạng rao giảng, nên ngay từ
đầu chúng ta đã thấy các cặp đi rao
giảng chung, như trong Tông Đồ Công Vụ đề
cập đến: Phao-lô và Ba-na-bê, Phêrô và Gioan. Và Giêsu đã
ban cho họ quyền trừ quỷ. Điều này được
Mác-cô nêu bật trong Phúc Âm của mình (ss. Mc 1, 21-28), qua
đó quyền năng của Giêsu được “tô
đậm”, quyền năng giải phóng con người
khỏi thần dữ. Vâng, Mác-cô chủ ý nêu bật
điều này, vì độc giả của ông là những
người kitô giáo trở lại ở Roma. Họ cần
nhận ra sự gần gũi của Thiên Chúa, ngay cả
khi thần dữ đang chế ngự. Sự gần
gũi và quyền năng Thiên Chúa chính là bảo đảm
cho sự tự do của những người con cái Thiên
Chúa.
Trở về với đoạn Phúc Âm,
các môn đệ ra đi với quyền năng của
Giêsu để trừ quỷ. Thực, trong trận
chiến đấu với thần dữ, thì nếu không
mang vũ khí của Thiên Chúa ban cho, thì không thể nào
chiến thắng được: “Sau cùng, anh em hãy tìm
sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của
Người. Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên
Chúa, để có thể đứng vững trước
những mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta
chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là
với những quyền lực thần thiêng, với
những bậc thống trị thế giới tối
tăm này, với những thần linh quái ác chốn
trời cao. Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn
bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa; như thế, anh em
có thể vận dụng toàn lực để đối
phó và đứng vững trong ngày đen tối.” (Ep 6, 10-13)
Đây chính là vũ khí thiêng liêng các môn đệ cần
đến.
Với sự sai đi và với
quyền năng trừ quỷ của Giêsu ban cho, các môn
đệ và giáo hội nhận được một
sứ mạng mới, sứ mạng loan báo Tin Mừng
nước Thiên Chúa, và sứ mạng trừ khử
thần dữ trong thế giới.
“Người chỉ thị cho các ông không
được mang gì đi đường, chỉ trừ
cây gậy; không được mang lương thực, bao
bị, tiền đồng để giắt lưng;
được đi dép, nhưng không được
mặc hai áo.”
Lời nhắn nhủ của Giêsu
ở trên được coi như là chỉ thị,
tiếng Hy-lạp là paragge,llw
(paraggellò). Theo từ điển chú giải Tân Ước
của Horst Balz và Gerhard Schneider xuất bản (Exegetisches
Woerterbuch zum Neuen Testament), thì động từ này xuất
hiện 31 lần trong Tân Ước. Trong các sách Phúc Âm,
chỉ có Giêsu là người ra lệnh cho thần ô uế
(Lc 8,29), và chỉ thị cho nhóm 12 (Mc 6,8).... Ở đây,
trong đoạn phúc âm của Mác-cô, theo R. Pesch, với
chỉ thị này Giêsu muốn đặt nền tảng
cho nguyên tắc sai đi của Ngài. Nguyên tắc đó là gì
vậy?
“Không được mang gì đi
đường”, nghĩa là phải từ bỏ của
cải và không còn có nhu cầu gì cả. Đó là nguyên
tắc rất triệt để. Như vậy, trong
bối cảnh xã hội thời đó, thì người môn
đệ của Giêsu còn phải triệt để hơn
cả những nhà triết gia Kyniker, những nhà thuyết
giảng khắc khổ đi khắp mọi nơi. Và khi
các triết gia Kyniker đi, thì họ không có nhu cầu gì
cả, nhưng họ có đem theo gậy, túi xin tiền và
chiếc áo mantel giành cho nhà triết gia. Còn các môn đệ
của Giêsu thì có gậy đấy, nhưng không có túi xin
tiền hay ba lô hay túi ngủ gì cả, và cũng chẳng có
tiền buộc bụng, đến cả của ăn
đàng cũng không có nữa. Dù vậy, có áo, nhưng
chỉ là một thôi chứ không phải là hai hay là ba.
Nhưng tại sao lại phải
từ bỏ những vật dụng đó?
Không mang lương thực đi
đường, không bánh trái gì cả. Điều này còn
vượt trội hơn các triết gia khắc khổ
Kyniker thời đó, vì khi họ ra đi thì họ đem
theo bánh, trái vải và bình nước. Như vậy,
người loan báo tin mừng của Đức Kitô sẽ
hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, và cũng tự do và khiêm
nhường đón nhận tất cả những gì anh
chị em ban cho mình. Ai cho ăn gì thì ăn nấy. Ai cho ly nước
thì uống nước, ai mời tách trà thì sẵn sàng
ngồi lại nhâm nhi. Thật đơn sơ và giản
dị.
Giản dị hơn nữa, khi
chẳng đem theo bao bị, chẳng có ba lô trên vai. Rũ
bỏ tất cả. Tự do hoàn toàn. Không vương
vấn điều gì, không giữ lại sự gì cả.
Như vậy, thì không chỉ chân rảnh, mà tay cũng
rảnh, người cũng nhẹ và đầu óc cũng
trở nên trống rỗng hoàn toàn, để tất
cả cho Tin Mừng mà thôi.
Tất cả vì Tin Mừng nên tiền
bạc cũng chẳng màng tới. Và nhờ vậy mà tránh
được biết bao nhiêu phiền toái tiền bạc
có thể gây ra. Không tham lam, không thu gom, không cất giữ,
đỡ phải mệt mỏi ôm đống tiền
trong lòng, đỡ phải phí phạm chẳng đáng gì.
Hơn nữa, trong xã hội Đông Phương thời
đó, thì khi không mang tiền bạc trên mình, sẽ tránh
được sự trấn lột của kẻ
cướp qua đường.
Thật là tuyệt, nếu tự do hoàn
toàn với tiền bạc, tự do với thế lực
của đồng tiền mà người đời thường
nói: “Có tiền mua tiên cũng được.”
Vật được mang theo là gậy
và dép, còn áo thì chỉ một cái thôi nhé! Tại sao vậy?
Cây gậy ở đây là vật dụng cần thiết
cho người lữ hành, cho người giảng
thuyết phải đi khắp mọi chốn để
loan báo tin vui. Với cây gậy trên tay chứ không vũ khí
nào khác, người giảng thuyết xuất hiện
rất đơn sơ và giản dị trước
mọi người. Không ai phải sợ sệt người
giảng thuyết cả, và người rao giảng Tin
Mừng cũng không cần phải hãi sợ ai hết:
“Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra,
không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ
lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không
biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm,
thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ
tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng. “Anh em đừng sợ
những kẻ giết thân xác mà không giết
được linh hồn” (Mt 10, 26-28a) Và người rao
giảng sẽ “không phải chết, nhưng sẽ
sống, để loan báo những công việc CHÚA làm.” (Tv
118,17)
Dép được nhắc ở đây
chính là Sandalion, tiếng
Hy-lạp là sanda,lion, có
thể mường tượng như giày Sandal có quai như hiện giờ, là một
vật dụng cần thiết cho người rảo
bước khắp mọi nơi loan báo Tin Mừng. Sandal được sử
dụng rất thường trong xã hội Do-thái thời
đó, và rất cần thiết cho những chặng
đường dài, từ miền đất này qua miền
đất khác. Cũng nên nhớ rằng, ở Ít-ra-en có
những miền đất sa mạc rất khô cằn và
nóng, vì thế Sandal thực
là cần thiết. Còn khi đi chân không, thì đó là dấu
hiệu của sự tang tóc và chay tịnh. Vâng,
người rao giảng tin vui đâu có ăn chay, đâu có
mang tang tóc, vì thế cần phải đi Sandal vào, và
như vậy thì mới khỏe khoắn nhanh nhẹn
rảo bước, sẵn sàng lên đường đi
bất cứ nơi đâu, đến với bất
cứ ai đang cần đến Tin Mừng.
Ngoài Sandal và gậy ra, người loan
bao tin vui được phép mang theo áo, nhưng chỉ
một mà thôi. “Áo” ở đây dịch từ ngữ
Hy-lạp citw,n (chitòn). Theo từ điển
chú giải Tân Ước của Horst Balz và Gerhard Schneider,
thì áo này là một loại áo dài bằng vải thô hay len, dài
có thể tới đầu gối che thân mình trên và thân mình
dưới, có cả hai loại tay ngắn và tay dài. Ngoài
ra, theo Adolf Pohl, trong xã hội Đông Phương thời
đó, quần áo là dấu hiệu nói về sự giàu sang
phú quý. Người giàu sang là người có nhiều
quần áo, trong khi người nghèo khổ chỉ có
mỗi một chiếc áo che thân. Để khoe khoang và
muốn mọi người tiếp đón mình đàng hoàng,
người giàu có thường thay đổi áo và mang trên
mình nhiều áo khác nhau. Nhưng cũng vì sự khoe khoang
này, mà họ trở thành nạn nhân của kẻ
cướp đường.
Người loan báo tin mừng của
Giêsu không cần phải khoe khoang, không cần phải
sửa soạn nhiều, không cần phải mang áo có
hiệu vào mình. Vâng, khi mọi người chẳng sợ
hãi gì trước người loan báo tin mừng, thì cũng
thế, không ai phải ganh tị với người loan
báo tin mừng về áo quần cả. Như vậy, tinh
thần của người loan báo tin mừng là trở nên
tự do hoàn toàn với mọi thứ. Mọi thứ
đều trở thành thứ yếu. Chỉ có Tin
Mừng, Nước Thiên Chúa và ơn cứu rỗi cho
mọi người là tất cả. Không có gì hơn
cả. Cả quần áo, cả tiền bạc, cả
lương thực, cả balô. Vâng, nói theo tinh thần
của thánh I-nhã, thì người môn đệ của Chúa
cần phải trở nên bình tâm và tự do hoàn toàn,
để luôn sống theo thánh ý Chúa, và luôn ao ước
được trở nên nghèo khó như Đức Kitô,
Vị Giảng Thuyết đơn sơ nghèo hèn, nhưng
đem lại biết bao nhiêu ơn lành cho mọi
người.
“Người bảo các ông: “Bất cứ
ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở
lại đó cho đến lúc ra đi.”
Sau các chỉ thị về việc
từ bỏ tất cả những gì không cần thiết
để lên đường, Giêsu căn dặc các môn
đệ thêm hai nguyên tắc, khi đi đến với
những người mà họ rao giảng. Điều
thứ nhất liên quan đến lòng hiếu khách và đón
tiếp. Trong tục lệ Do-thái, sự hiếu khách
đóng một vai trò quan trọng. Sự hiếu khách
hứa hẹn sự chúc phúc, và còn là sự tha thứ cho
người lầm lỡ. Ngay cả đối với
kẻ thù, thì cũng khó lòng mà từ chối không đón
tiếp. Về phía khách, ở đây là những
người rao giảng tin vui, thì không được phép
thay đổi chỗ ở tùy ý. Trong ý nghĩa mà Mác-cô
diễn tả ở đây, có thể việc rao giảng
và xây dựng một cộng đoàn đòi hỏi nhiều
thời gian, nên không không được thay đổi
chỗ ở liên hồi. Trong khi Tin Mừng chưa “đâm
rễ” vào lòng người, vào cộng đoàn, thì cần
phải ở lại.
“Còn nơi nào người ta không đón
tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy
giũ bụi chân để tỏ ý phản đối
họ.”
Nguyên tắc thứ hai ở đây liên
quan đến sự từ chối, không đón tiếp,
không lắng nghe của chủ nhà. Khi chối từ
người rao giảng và sứ điệp anh ta
đưa lại, là chối từ chính Đấng sai anh
ta. Sự chối từ đem lại hậu quả.
Như trong phản ứng của Giêsu với những
người Na-za-réth, Giêsu nói với các môn đệ mình hãy
đi ra khỏi đó, và giũ bụi chân để
tỏ ý phản đối họ. Thái độ giũ
bụi này trong xã hội Do-thái thời đó,
được người Do-thái làm, mỗi lần họ
từ đất dân ngoại trở về lại biên giới
của đất thánh. Theo truyền thống của các
Rabbi, thì bụi đó có thể sẽ làm ô uế. Vì
vậy, họ muốn tẩy rửa và giũ lại
tất cả những gì dơ bẩn.
Theo các nhà chú giải, thì trong
đoạn phúc âm này, thái độ giũ bụi chân là
biểu tượng của chứng từ mà người
rao giảng tin mừng để lại, và hy vọng có
ngày người chối từ Tin Mừng sẽ suy nghĩ
lại, tự chất vấn lại thái độ của
mình đối với Tin Mừng và đối với
Đấng là chủ của Tin Mừng.
“Các ông đi rao giảng, kêu gọi
người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ
được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều
người đau ốm và chữa họ khỏi
bệnh.”
Nhóm Mười Hai ra đi theo lời
sai đi của Giêsu, và họ đã làm được
nhiều điều tốt lành. Cụ thể họ đã
ra đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn
sám hối. Không chỉ thế, với quyền trừ
quỷ mà Giêu đã trao, họ đã trừ được
nhiều quỷ. Mác-cô lại làm nổi bật điều
này, để qua đó nói lên quyền năng của Thiên
Chúa trên thần dữ. Quyền năng giải thoát con
người khỏi bóng đêm. Thêm vào đó họ đã
xức dầu cho nhiều người đau ốm và
chữa họ khỏi bệnh.
Như vậy, khi ra đi theo lời kêu
gọi của Đức Kitô, và sống đúng theo chỉ
thị và tinh thần của Ngài, các môn đệ đã cùng
với Đức Kitô đem lại Tin Mừng cho rất
nhiều người, và qua đó họ nhận
được sự tự do làm con cái Thiên Chúa, sự
tự do với bình an và niềm vui sống mà mọi
người có thể tìm thấy trong Nước Trời.
|