Đức Giêsu sai nhóm
mười hai đi
(Chú
giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ
cảnh
Đức
Giêsu đã thiết lập Nhóm Mười Hai với hai
mục tiêu: họ phải ở với Người và
phải được Người cử đi loan báo Tin
Mừng và trừ quỉ (Mc 3,14t). Kể từ khi
được Người chỉ định, Nhóm
Mười Hai ở với Người, đồng hành
với Người, chứng kiến tất cả
hoạt động giảng dạy và tất cả các hành
vi quyền lực của Người. Như thế, các
ông chu toàn mục tiêu đầu tiên mà Đức Giêsu
nhắm cho các ông, khi các ông cùng đi với Người
trong khi Người chu toàn sứ mạng của
Người (x. 1,38).
Đức
Giêsu đang đi đường và giảng dạy các làng
trong miền Galilê (6,6). Kế
đó, Người cử Nhóm Mười Hai đi,
để các ông nối tiếp công việc của
Người.
2.- Bố
cục
Bản
văn có thể chia thành hai phần:
1)
Đức Giêsu ban chỉ thị cho Nhóm Mười Hai (6,7-11):
a- Nhóm Mười Hai được giao
phó sứ mạng (c. 7),
b- Giáo huấn của Đức Giêsu
về hành trang (cc. 8-9),
c- Giáo huấn của Đức Giêsu
về cách xử sự (cc. 10-11);
2)
Nhóm Mười Hai thi hành sứ mạng (6,12-13).
3.- Vài
điểm chú giải
- Nhóm
Mười Hai (7):
Đời tông đồ là một cuộc hành trình
để nên đồng hình đồng dạng với
Đức Giêsu. Điều này
được tác giả Mc diễn tả bằng cách dùng
thuật ngữ “Nhóm Mười Hai” ở 7 điểm quan
trọng. Thuật ngữ này trở đi trở
lại theo những khoảng cách
đều đặn: từ khi Nhóm được thành
lập cho đến khi tan rã vào lúc Giuđa phản
bội, Nhóm được nhắc đến ở mỗi
chặng quan trọng. Các ông đi theo
Đức Giêsu từ lời đầu tiên loan báo về
Nước Thiên Chúa cho đến thử thách cuối cùng:
1) Lần đầu,
ở ch. 3: Đức Giêsu “thành lập (= tạo thành) Nhóm
Mười Hai, để các ông ở với Người
và để Người sai đi rao giảng” (3,14). Và xa hơn: “Người thành lập Nhóm
Mười Hai” (3,16).
2) Ở ch. 4: “Khi còn
một mình Người, những người thân cận
cùng với Nhóm Mười Hai mới hỏi Người
về các dụ ngôn” (4,10). Lần
đầu tiên Nhóm Mười Hai hỏi riêng Đức
Giêsu: điều này chứng tỏ Nhóm được
tuyển chọn để được đào tạo
riêng.
3) Ở ch. 6:
“Đức Giêsu gọi Nhóm Mười Hai” (6,7).
Trong TM Mc, từ ngữ “tông đồ” chỉ
được dùng ở 6,30.
4) Ở ch. 9:
Đức Giêsu nhắc bảo các môn đệ vài
điều: “Ngài gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai
muốn làm đầu, thì phải làm người rốt
hết, và làm tôi tớ mọi người” (9,35).
5) Ở ch. 10:
Đức Giêsu loan báo Người sẽ chết và
sống lại. Đức Giêsu dẫn các ông; các ông kinh
hoàng, còn nhưng kẻ theo sau cũng
sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra,
và bắt đầu nói với các ông về những
điều sắp xảy đến cho mình” (10,32).
6) Ở ch. 11:
Đức Giêsu đã đi vào Giêrusalem: “Sau khi rảo
mắt nhìn xem mọi sự, Người ra khỏi thành…,
và tiến về Bêtania cùng với Nhóm Mười Hai” (11,11). Câu 11 là như lời
dẫn nhập vào hoạt động của Đức
Giêsu tại Giêrusalem (nơi chốn, hoàn cảnh,
chương trình hành động), và Nhóm Mười Hai là những
người tháp tùng Người.
7) Ở ch. 14 (tại
Giêrusalem): Đây là khởi đầu cuộc Thương
Khó, Nhóm Mười Hai được nhắc đến
thường xuyên, nhưng như là Nhóm trong đó có kẻ
phản bội: 14,10.17.20.43. Mỗi lần kẻ phản bội
được nhắc tên cũng là mỗi lần Nhóm
được nhắc lại. Ở 14,17,
Nhóm Mười Hai được nêu lên như là những
người tháp tùng Đức Giêsu vào Tiệc Ly và
đồng bàn với Người.
Khi nêu bật Nhóm Mười Hai, Mc cho
thấy rằng Tin Mừng không phải là một hệ
thống các giáo thuyết hoặc luật lệ. Khi nêu bật Nhóm Mười Hai, Mc cho
thấy rằng Tin Mừng được mạc khải
và đón nhận xuyên qua một quan hệ riêng tư
với Đức Giêsu, được truyền
đạt bởi những sứ giả được
đào tạo từ chính quan hệ này, và, cuối cùng,
điều ngài muốn là đưa độc giả
đi dần vào quan hệ riêng tư và trọn vẹn này
với Đức Giêsu.
-
Quyền trừ quỉ:
Mc trình bày sứ mạng của Nhóm Mười Hai như là
việc nối dài chính sứ vụ của Đức Giêsu
là rao giảng và chữa bệnh (chủ yếu là trừ
quỉ).
- không được mang gì đi
đường (8): Tình trạng thiếu trang bị
vật chất như thế phản ánh tính cấp bách
của công tác và sự tin tưởng ký thác hoàn toàn vào tay
Thiên Chúa.
- chỉ trừ cây gậy: Mt 10,10
và Lc 9,3 cấm các môn đệ cầm gậy đi
đường. NJBC giải thích: hoặc
bản văn Mc có khuynh hướng chế giảm
hoặc đây là cách đọc sai từ A-ram l’ (“không”)
thành ’l’ (“ngoại trừ”). Hay là phải chăng vào thời
Mc, tình thế còn khá nguy hiểm, nên còn chấp nhận
một vài chế giảm như thế?
- bao bị: Từ Hy Lạp
pêra là túi xách để đựng hành trang đi
đường hoặc của bố thí.
- được
đi dép (9): Mt 10,10 và Lc 9,3 cấm các môn đệ
đi giày; có lẽ đây là cấm đi một đôi
dư ra (Mt dùng từ hypodêma, vật bó dưới chân; còn
Mc dùng từ sandalion), bởi vì đi chân không trên các nẻo
đường đầy sỏi đá xứ Paléttina thì
rất vất vả.
- hai áo: Từ Hy Lạp chitôn là
áo trong, mặc sát người.
- giũ bụi chân (11): Khi có
nơi nào không đón tiếp mình, người môn đệ
được hướng dẫn làm thành một hành vi
biểu tượng thôi, chứ không trả đũa thô
bạo. Hành vi này nhằm thúc bách
những con người tại nơi ấy phải suy
nghĩ. Hành vi này cũng có thể có liên
hệ với việc giũ bụi chân khi trở lại
xứ Paléttina. Khi ấy, ý nghĩa của hành vi này là thành thiếu lòng hiếu khách thì không
thuộc về Ít-ra-en chân chính.
- Các
ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn
sám hối (12): Câu tóm về lời rao giảng
của các môn đệ làm vọng lại câu tóm về
lời rao giảng của Đức Giêsu trong 1,14-15: các môn đệ chia sẻ sứ
mạng của Thầy (x. c. 13).
4.- Ý
nghĩa của bản văn
*
Đức Giêsu ban chỉ thị cho Nhóm Mười Hai
(7-11)
Đức
Giêsu đã “gọi lại với mình” Nhóm Mười Hai:
điều này chứng tỏ uy quyền của
Người và sự chọn lựa của Người. Người cử Nhóm Mười Hai đi,
để các ông nối tiếp công việc của
Người. Các hình thái cơ bản trong hoạt
động của các ông là loan báo Tin Mừng và xua trừ
ma quỉ (3,14t; 6,7.12t): đây cũng là
những nhiệm vụ của Đức Giêsu (1,14t;
1,21-27; 1,39). Người không chu toàn
sứ mạng một mình, nhưng chia sẻ sứ
mạng đó cho những người mà Người đã
uốn nắn và đào tạo nhờ tiếp xúc
thường xuyên với Người. Cũng
như Người, các ông cũng phải loan báo Tin Mừng
là Triều Đại Thiên Chúa đã gần. Cũng
như Người, các ông phải truyền đạt
với xác tín cao và vững chắc sứ điệp vui
tươi và giải phóng này: chỉ mình Thiên Chúa là Chúa
tể; quyền làm chủ của Ngài trên muôn loài muôn
vật, vào lúc này, người ta chưa nhận ra
được, nhưng đến một lúc nào đó,
chắc chắn sẽ tỏ hiện rõ ràng.
Chân lý hệ trọng này, các môn
đệ phải loan báo không những bằng lời nói,
mà còn phải cho thấy nó có giá trị thực sự
bằng hành động nữa. Hành trang của các ông chỉ có những gì cần
thiết cho một lữ khách: một cây gậy, một áo
choàng và đôi dép. Người ta phải thấy
được rõ ràng là các ông không sở hữu gì cả và
các ông không có gì mà mang theo cả, ngoại
trừ sứ điệp của các ông: các ông chỉ là
sứ giả mà thôi. Về lối sống của các ông,
Đức Giêsu cho hai chỉ thị: các ông không được
đòi hỏi gì và phải ý thức về sứ mạng
của các ông. Các ông phải bằng lòng với mọi
kiểu nơi ăn chốn ở có được,
chứ không đi hết nhà này đến nhà kia
để tìm được nếp sống thoải mái
hơn. Các ông phải nêu bật ý nghĩa
của sứ điệp. Ai không muốn nghe, các ông
phải cho họ hiểu rõ ràng rằng khi từ chối
như thế, họ đã lấy một quyết
định hệ trọng trong quan hệ đối
với ơn cứu độ: giũ bụi chân
để cho hiểu rằng vừa xảy ra một
việc tách biệt quyết liệt, “giữa chúng ta, không
còn liên hệ gì nữa!”. Từ
chối sứ giả có nghĩa là từ khước
sứ điệp.
* Nhóm
Mười Hai thi hành sứ mạng (12-13)
Giữa
phần mô tả hoạt động của Nhóm
Mười Hai (6,12t) và việc họ trở về (6,30), TM II không nói gì đến hoạt
động của Đức Giêsu. Hoạt
động của các tông đồ có trọng
lượng riêng, chứ không phải là một chuyện
phụ thuộc được che phủ bởi hoạt
động của Đức Giêsu. Hoạt
động của các ông có trọn vẹn tầm quan
trọng của nó. Các ông đã ra đi thi hành hai
điều cốt yếu trong chỉ thị của
Đức Giêsu: rao giảng và trừ quỉ.
+ Kết luận
Khi đọc đoạn văn trên
đây, Giáo Hội (và mỗi Kitô hữu) được
mời gọi nhận ra câu truyện về ơn gọi
của chính mình. Giáo
Hội (và mỗi Kitô hữu) không được khép kín
trên chính mình, theo một số tiêu
chuẩn xã hội học nào đó. Giáo
Hội sẽ phải ra đi đến mọi
phương trời vào mọi thời đại.
5.- Gợi
ý suy niệm
1.
Nhiệm vụ của người Kitô hữu hôm nay
cũng không khác nhiệm vụ của Nhóm Mười Hai
xưa kia: loan báo Tin Mừng và giảm
thiểu ảnh hưởng của sự dữ. Nhưng
sức riêng không giúp họ chu toàn được sứ
mạng này; họ cần phải liên kết mật
thiết với Đức Giêsu (“ở với
Người”; x. 3,14).
2.
Người Kitô hữu không được chỉ giới
hạn vào việc lắng nghe sứ điệp về
Triều Đại Thiên Chúa, mà còn phải nhận ra trong
đời sống mình có quyền lực của Thiên Chúa
đang hoạt động để đưa lại
sự giải thoát và niềm vui.
3.
Làm chứng bằng lời nói là một khía cạnh của
sứ mạng tông đồ. Tuy nhiên, sứ
mạng này sẽ khiếm khuyết nếu việc làm
chứng bằng lời nói không được phối
hợp với việc làm chứng bằng hành động,
bằng chính đời sống mình.
4. Người Kitô hữu luôn nhớ
rằng mình là người được sai phái đi, nên
phải lệ thuộc vào các chỉ thị của Chúa mình
và phải trả lời về cách thực hiện các
mệnh lệnh của Người. Như thế, ra đi
loan báo Tin Mừng không phải là cơ hội để
truyền đạt và áp đặt các tư tưởng
của riêng mình.
|