CHÚA KÊU GỌI
VÀSAI CÁC ÔNG ĐI TRUYỀN GIÁO
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Công việc truyền giáo
của Nhóm Mười Hai.
Ngay từ
những trang đầu Tin Mừng của mình, Maccô đã
muốn kể lại việc Chúa kêu gọi Simon và anh
của ông là Anrê, cùng với hai anh em Giacôbê và Gioan khi
Người đang đi dọc theo Biển Hồ Galilê (1,16-20); Người nói với các ông ấy:
“Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới
người như lưới cá!” Maccô cũng cho ta
thấy khi tới Capharnaum vào một ngày Sabát, Đức
Giêsu "cùng với các môn đệ đi vào thành” (1,21). Sau đó thánh sử còn cho ta thấy
Đức Giêsu "Lập Nhóm Mười Hai để các
ông ở với Người và để Người sai
các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ”(3,14-15). Con số Mười Hai ám chỉ
mười hai chi tộc Israel là dấu chỉ Chúa muốn khai
sinh một dân Thiên Chúa mới nơi bản thân các ông.
Giờ
đây Maccô gợi nhớ lại buổi truyền giáo ban
đầu của Nhóm Mười Hai mà Ngài lại
đặt vào trong một nghịch cảnh là sau chuyến
viếng thăm thất bại của Đức Giêsu khi
trở về quê hương Nagiarét. Maccô viết:
"Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt
đầu sai đi”. Hai động từ
"Gọi, sai đi" diễn tả rõ rệt ơn
gọi của các ông. Các ông sẽ là những "Tông
đồ" của Đức Giêsu, nghĩa là những
người được Chúa "sai đi”, như Tin
Mừng thứ hai sẽ nói đến, khi các ông đi
truyền giáo về (6,30).
Những
lời tiếp theo là chỉ thị
Đức Giêsu ban bố cho các tông đồ trước
khi lên đường truyền giáo. M. Quesnel ví những
lời đó như "một loại thủ bản, một
cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo"
("Comment lire un évangile?", Seuil, trang
103).
-
Đức Giêsu sai các ông đi: “Từng hai người
một".
J. Potin
giải thích: đó là tập tục các kinh sư. Vẫn thi hành đối với các môn sinh của
họ. Hai người có chứng từ
phù hợp nhau chứng tỏ rằng họ cùng
được sai đi từ một người.
Thực vậy, sứ điệp họ mang đi không
phải là của riêng các ông, mà là của Đức Giêsu " (Jésus, l'histoire vraie", Centurion, trang
266-267). Nhóm Mười Hai không được “tính toán cho
mình". Sứ mệnh của các ông bắt
nguồn từ Đức Giêsu; đây là công việc
của nhóm, là hành đông mang tính cộng đoàn.
Và thực tế như vậy, trong Công vụ Tông
đồ, chúng ta sẽ thấy các nhà truyền giáo ấy
thường lên đường với nhau "từng hai
người một”. Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13);
Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); giuđa và Sila (Cv 15,22).
-
Đức Giêsu ra chỉ thị cho các kẻ Người
gọi và sai đi như vậy phải có tinh thần khó
nghèo và từ bỏ:
] Khó nghèo xét về hành trang đi đường:
"Một cây gậy, một đôi dép" là những gì
Người cho phép. Người cũng không
đồng ý cho mang hai áo”. Những kẻ
được Chúa sai đi sẽ là những con
người thanh thoát, không cồng kềnh, mà rong ruổi
như Người và luôn sẵn sàng lên đường
đi loan báo Tin Mừng.
] Khó nghèo xét về những phương tiên sinh
sống: không được mang lương thực, bao
bị, tiền giắt lưng”. Hành trình như vậy
đặt các người được sai đi tong
tư thế tùy thuộc. Họ sẽ nhận lương
thực và tiền túi từ tay những
ai sẽ tiếp rước họ.
Đức
Giêsu không giấu giếm họ: con đường
truyền giáo là con đường gian khổ. Cũng
như Người họ phải đón nhận rủi ro
bị chối từ hay xua đuổi Các ông phải đi
theo Người đến độ
phải bị chống đối, phải hy sinh thân mình.
2. Một sứ mệnh nối
tiếp sứ mệnh của Đức Giêsu.
Sứ
mệnh của Nhóm Mười Hai không phải là của
riêng các ông, đó chính là sứ mệnh của Đức
Giêsu nối tiếp nơi bản thân các ông: các ông rao
giảng cùng một sứ điệp như Đức
Giêsu là "Sám hối” (Anh em hãy sám hối và tin vào Tin
Mừng" Mc 1,14-15); các ông thực hiện cùng những
dấu chỉ như Đức Giêsu là "trừ
quỷ"và nếu Maccô ghi nhận rằng nhờ việc
"xức dầu cho nhiều người đau ốm và
chữa họ khỏi bệnh" thì hẳn là để
ám chỉ rằng các ông hành động nhờ quyền
năng của một ai khác là Đức Giêsu vậy.
Là
những người được kêu gọi và sai đi,
Nhóm Mười Hai không được giới thiệu
ở đây như là những chuyên viên có ít nhiều chuyên
môn hay là những người chuyên trách rao giảng Tin
Mừng. J. Delorme kết luận: "Maccô mang lại cho sứ
mệnh của nhóm Mười Hai một chiều kích
rộng lớn hơn cả không phủ nhận một
sự thật là bất cứ tác vụ nào trong Hội
Thánh đều có thể tìm thấy nền tảng nơi
sứ mệnh của Nhóm Mười Hai, trình thuật này
của thánh Maccô có thể nhắc cho mọi tín hữu
nhớ rằng họ thuộc một Hội Thánh
được sai đến với mọi người và
họ phải là nhân chứng của Đức Giêsu
trước mặt người đời”.
BÀI ĐỌC THÊM
1. "Sứ mệnh của Nhóm
Mười Hai, một cột mốc quan trọng và mang
nhiều ý nghĩa"
(J. Delorme, "Assemblées du Seigneur" số
46, trang 49).
Không những mang giá trị lịch sử,
bài trình thuật về sử mệnh của Nhóm
Mười Hai ở Galilê, trong Tin Mừng Maccô còn hoàn thành
một chức năng cao hơn. Trình thuật ấy ghi
một cột mốc quan trọng, có ý nghĩa, ở
buổi ban đầu của Hội Thánh cũng như
trong sự triển khai một công trình vẫn
được theo đuổi trong Hội Thánh và thế
giới. Khi đọc trình thuật này Hội Thánh
được mời gọi nhận ra ơn gọi
của mình. Ơn gọi này bao hàm một sứ mệnh
không cho phép Hội Thánh được tự kết
cấu thành xã hội khép kín đối với chính mình
hoặc đối với bất kỳ mô hình văn hóa-xã
hội nào. Trong trình thuật của Maccô, khi sai Nhóm
Mười Hai ra đi, không kèm theo một xác định rõ
ràng nào về địa điểm, nơi chốn
phải tới để hạn định các ông (so sánh
với Mt 10, 5-6 và Lc 9,6; 10,1). Mà theo sau đó là cả
một bài tập nghề khó khăn đối với các
môn đệ, khiến Đức Giêsu phải gia tăng
các phép lạ và những lời cảnh giác rút vào ngay trong
Do Thái giáo (7,8-13). Theo cái nhìn của Hội Thánh, Nhóm
Mười Hai chính là những bảo chứng cho phần
vụ mà Hội Thánh phải gánh vác là giới thiệu Tin
Mừng cho tất cả mọi người.
2.
"Được liên kết với sứ mệnh
của Chúa"
"Đức Giêsu cho con người liên
kết với công việc chính Người đang thực
hiện. Người mở rộng công việc rao
giảng, rời bỏ làng mạc cùng gia đình, đi
đến các làng chung quanh mà giảng dạy. Người
gọi Nhóm Mười Hai để ở bên Người
rồi sai họ đi. Các ông sẽ phải lao vào cùng
một cuộc chiến như Chúa, nên Người ban cho
các ông "quyền trừ quỷ”. Thế là các ông ra đi
từng hai người một, kêu gọi người ta
ăn năn sám hối, trừ được nhiều quỷ,
chữa nhiều người đau ốm khỏi
bệnh. Rồi đây cuộc đời của các Tông
đồ sau khi Chúa sống lại và ban Thánh Thần,
sẽ như thế nào, thì lúc này đã được
khởi sự như một bước thí nghiệm
vậy. Bởi đấy người môn đệ
của Đức Giêsu chia sẻ sứ mệnh của
Người. Người môn đệ ấy loan báo và
truyền đạt ơn cứu độ, ơn chữa
lành ơn giải thoát. Đức Giêsu làm cho người
môn đệ ấy trở thành cộng tác viên của
Người. Người môn đệ mang cùng một tâm
tư, có chung cùng hoạt động và những bận tâm
như Thầy mình. Từ nay, những "ưu tư ”
của người môn đệ trở nên đơn
giản vì "Người chỉ thi cho các ông không
được mang gì đi đường, chỉ trừ
cây gậy, không được mang lương thực, bao
bị, tiền giắt lưng. Đi theo Đức Giêsu,
không phải là sống cách biệt với sứ mệnh. Nhưng
là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người
với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự
do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn
cứu độ".
3. “Từ di
sản đến cử chỉ đề nghị"
("Thư gởi người Công giáo
Pháp", Cerf, trang 36-37).
Cái thời mà Hội Thánh thực Sự hoá
thân với đại bộ phận xã hội, dầu
gặp phải nhiều chống đối và thách
đố, công việc truyền bá đức tin
đều được tiến hành gần như tác
động, nhờ vào những bộ phận chuyên lo
việc truyền bá này còn có mặt ở cả những
cơ quan điều hành thông thường của xã
hội nửa. Do đó mà kiểm chứng được
câu ngạn ngữ cho rằng người ta không sinh ra làm
người tín hữu, nhưng cử thành người tín
hữu (có đạo theo kiểu cha truyền con nối).
Dần dà với thời gian, chúng ta
phải nhìn nhận rằng hoàn cảnh xa xưa này có
những điều bất tiện, bởi lẽ khi
việc loan báo đức tin ít nhiều bị thu gọn
vào công việc thi hành những thủ tục gần như
tự động để truyền đạt,
người ta khó mà nhận thấy được
những lệch lạc có thể xảy ra. Có những
lệch lạc thực sự đã dẫn đến
một thứ tục hóa đức tin chừng nào
đạo Công giáo nhắm trở thành một phận
vụ của xã hội và Hội Thánh thì được coi
như một dịch vụ bình thường của xã
hội.
Hoàn cảnh hiện nay lại có những
khó khăn mới. Thực vậy, việc truyền bá
đức tin ngày nay đang bị thỏa hiệp,
hoặc rất khó thực hiện trong những khu vực
rộng lớn của xã hội Pháp.
Điều có vẻ nghịch lý là hoàn
cảnh này đòi buộc chúng ta phải đón nhận
chiều kích mới mẻ của đức tin và kinh
nghiệm sống đức tin ấy. Chúng ta không còn có
thể chỉ hài lòng với một di sản đã
thừa hưởng dù nó có phong phú đến đâu. Mà
phải mở lòng đón nhận ân huệ Chúa ban trong
những điều kiện mới mẻ và đồng
thời tìm lại được cử chỉ ban
đầu của việc phúc âm hóa đó là thái độ
đề nghị đơn sơ mà cả quyết
của Tin Mừng đức ki tô (Giáo Hội chỉ rao
giảng Tin Mừng như một đề nghị
để mỗi người tự ý quyết định
lựa chọn).
|