Đức tin cứu sống.
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Văn
hào Tu-ghê-nít của Nga có
kể lại một giai thoại sau:
Thời chiến tranh ông bị cảm
nặng. Người ta mang ông vào một
quân y viện để chữa trị. Khi tỉnh dậy,
ông thấy nhà thương đầy người, không có một
chiếc giường
trống nào, mà bệnh nhân
mỗi ngày một thêm đông. Bác sĩ trực
phòng của ông đi một
vòng đến các giường. Đến bên cạnh ông, bác sĩ dừng
lại và hỏi người y tế:
-
Hắn vẫn còn sống
ư?
Người y
tế trả lời:
-
Tôi
chưa kiểm lại. Nhưng sáng nay thì hắn vẫn còn
sống.
Bác sĩ cúi
xuống và đặt ống nghe trên ngực ông. Nghe
biết tất cả mọi sự, cho nên ông cố
gắng thở thật mạnh. Sau khi nhấc ống nghe
lên, bác sĩ thở dài và nói:
-
Thiên
nhiên thật ngu đần, lẽ ra người này
phải chết, nhưng không hiểu sao hắn vẫn còn
thở và như vậy là hắn chiếm mất chỗ
của người khác
Tu-ghê-nít lắng
nghe được tất cả những lời ấy. Ông
tưởng số phận của ông đã được
quyết định, nhưng không ngờ sau đó ông đã
được khỏi bệnh một cách lạ lùng
trước sự ngạc nhiên của viên bác sĩ
trực và nhiều y tá khác trong quân y viện.
Những bệnh nhân biết
được những gì người ta làm cho mình và còn
sống sót để kể lại kinh nghiệm của
mình như văn hào Nga trên đây không phải là hiếm. Một
viên thuốc ngủ, một mũi thuốc mê cực
mạnh, nhiều người đã bị cướp
mất mạng sống dễ dàng. Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II đã kêu goị con người ngày nay hãy xây
dựng một nền văn minh của sự sống
chứ không phải của sự chết. Tin Mừng hôm
nay có thể được coi như một câu trả
lời của lòng tin cho một vấn đề từng
gây thắc mắc nơi con người thuộc mọi thời
đại: vấn đề sự sống. Hai phép lạ:
chữa lành bệnh người phụ nữ băng
huyết và cho một bé gái 12 tuổi sống lại,
đều minh chứng Đức Giêsu là chủ sự
sống, là nguồn cội sự sống, vì Ngài là
Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại.
Theo quan niệm của người Do
Thái xưa, thì máu huyết tượng trưng cho sự
sống. Người phụ nữ bị băng huyết
có nghĩa là sự sống nơi chị mất dần
đi, tiêu hao đi, nên coi như chị là người
đã chết. Nhất là trong hoàn cảnh của chị,
đau khổ không chỉ vì bệnh kéo dài, tiền mất
tật mang, mà còn khổ về mặt tinh thần, vì
tập quán tôn giáo xã hội coi những người mắc
chứng bệnh này, cũng như bệnh cùi, bệnh
hủi, khinh khi. Phải nói là người phụ nữ
bị băng huyết này coi như đã chết hai
lần, cả về mặt sự sống thể xác
lẫn về mặt đời sống tinh thần. Phép
lạ Chúa Giêsu làm đã cứu thoát chị, đã đem
lại cho chị một cuộc sống dồi dào, cả
trong ý nghĩa được sát nhập lại vào trong lòng
cộng đồng tôn giáo.
Còn trong phép lạ Chúa Giêsu làm cho em bé
sống lại, thì chúng ta thấy hành động của
Chúa Giêsu vượt xa điều mà gia đình ông Giairô,
trưởng hội đường, mong đợi: khi con
gái duy nhất của ông hấp hối, ông đã chạy
đi cầu cứu với Chúa Giêsu, vì ông tin rằng Ngài có
thể cứu con ông khỏi cái chết. Nhưng khi hay tin
con đã chết rồi, thì ông không còn hy vọng nào
nữa, không còn muốn làm phiền Chúa Giêsu đến nhà
làm gì nữa. Chúa Giêsu phải nâng đỡ tinh thần và
niềm tin của ông: “Ông đừng sợ, chỉ
cần tin thôi”. Và phép lạ đã được thực
hiện, trước nỗi kinh ngạc và hạnh phúc
của gia đình ông. Trưởng hội đường,
kinh ngạc và sung sướng đến nỗi ông và gia
đình quên cả việc chăm sóc đến con gái
của mình, khiến Chúa Giêsu phải nhắc khéo: “Hãy lo cho
cô bé ăn đi!”.
Trong tất cả hai phép lạ, chúng
ta đều thây nổi bật lên một yếu tố
nối liền giữa Chúa Giêsu và người
được phép lạ: đó
là lòng tin. Người phụ nữ bị băng
huyết, sau khi chạy thầy chạy thuốc không
khỏi, mà lại nghe nói về quyền phép của Chúa
Giêsu, thì dần dần trong lòng chị hình thành một
niềm tin mạnh mẽ: “Tôi mà sờ được áo
Ngài thôi, là sẽ được khỏi bệnh”. Chính lòng
tin mạnh mẽ đó đã giúp chị vượt qua
moị tập quán, mọi nếp suy nghĩ và quan niệm
tôn giáo có tính trói buộc và cản trở con người,
để mạnh dạn đến gần Chúa Giêsu. Chinh
lòng tin mạnh mẽ đó đã như khiến quyền
năng của Chúa Giêsu không thể từ chối
được: “Chúa Giêsu thấy có một năng lực
tự nơi mình phát ra”.
Lòng tin của ông Giairô cũng là
yếu tố quan trong để Chúa Giêsu là cho con ông
sống lại. Chắc chắn lòng tin của ông đã
được hỗ trợ bằng chính câu chuyện
người phụ nữ lành bệnh, cũng như đã
được nâng đỡ bởi lời khuyên chủ
của chính Chúa Giêsu: “Đừng sợ, ông ạ, cứ
vững tin đi!”.
Qua hai phép lạ trên, Chúa Giêsu còn
bộc lộ cho thấy thế nào là Thiên Chúa, thế nào là
Đấng Kitô của Thiên Chúa và loan báo một thời đại mới, thời
đại cứu độ mà các Ngôn Sứ đã loan
báo. Trước hết, Thiên Chúa là chủ sự sống,
ban phát sự sống cho con người và muôn loài vật. Riêng
đối với con người, thì không chỉ là
đời sống vật chất, tinh thần mà còn cả
đời sống ân sủng, đời sống làm con cái
Thiên Chúa. Để thực hiện chương trình sáng
tạo và cứu độ, Thiên Chúa đã hiến dâng cho
loài người tất cả, kể cả Người
Con yêu dấu, Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.
Đức Giêsu có sứ mạng
bộc lộ về Thiên Chúa, thực hiện chương
trình của Thiên Chúa là ban sự sống, là cứu chữa
những gì đã hư mất, là tìm đến với
người đau ốm cần thầy thuốc. Ngài luôn
quan tâm đến mọi nhu cầu cụ thể của
con người. Ngài cúi mình ghé mắt nhì xem nhu cầu
cụ thể của con người Ngài gặp: anh què, anh
mù, chị phụ nữ bị băng huyết cũng
như chị phụ nữ ngoại tình, người
bị quỷ ám, con trai bà goá thành Naim, cũng như con gái
ông Giairô. Tất cả những khổ đau, tật
nguyền đều có âm hưởng mạnh mẽ trong
tâm hồn Chúa Giêsu Kitô. Chính vì mang trong mình trái tim của
Thiên Chúa, nguồn sống của Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu đã
cứu chữa người này, bình phục người
kia, hồi sinh người khác, đem lại phẩm giá và
sự tôn trọng cho những ai đang bị loại trừ,
coi rẻ. Đối với Chúa Giêsu, không hề có một
tiêu chuẩn nào để lại bỏ, vì tất cả
thuộc về gia đình Thiên Chúa. Điều duy nhất
ngài đòi hỏi là lòng tin của chúng ta nơi quyền
năng và lòng thương của Ngài.
Lòng tin của chúng ta đối
với Thiên Chúa là nguồn gốc, là chủ sự sống
sẽ dẫn chúng ta đến một thái độ
tất yếu này là: chúng ta phải biết tôn trọng
sự sống, bảo vệ và phát triển sự
sống. Không phải chỉ sự sống thể xác mà
cả sự sống tinh thần và sự sống tâm linh
nữa. Không chỉ sự sống nơi mình, mà còn sự sống
nơi người khác, nơi dân tộc khác nữa.
Thế nhưng, chung quanh chúng ta không
biết bao nhiêu sự sống con người đang
bị xâm phạm, chà đạp, cách này hay cách khác. Bao nhiêu
trẻ em không được quyền sinh ra, không có
được những điều kiện thiết
yếu nhất về vật chất, tinh thần,
để sống một cuộc sống cho ra
người.
Chúa Giêsu đã sinh ra làm người là
để cho con người được sống và
sống một cách dồi dào. Nhưng sự sống
của chúng ta đón nhận từ nơi Chúa sẽ không
trọn vẹn, nếu chúng ta chưa thực sự chia
sẻ sự sống ấy cho những người chung
quanh. Bao lâu nhiều người anh em chung quanh chúng ta
chưa được sống xứng với phẩm giá
con người, bao lâu niềm vui và quyền
được sống như những con người
vẫn còn bị khước từ nơi nhiều
người đang sống bên cạnh chúng ta, thì có lẽ
chính chúng ta cũng không thể nào hưởng
được một cách dồi dào sự sống mà Chúa
Giêsu mang lại cho chúng ta.
|