Thánh Gioan Tẩy
Giả - Lm Nguyễn Hồng Giáo.
Trong Giáo hội, ngày lễ kính một
vị thánh là ngày tử trần của vị ấy, quen
gọi là "ngày sinh nhật trên trời” của
người, ngày người sinh ra trên trời. Duy chỉ có thánh Gioan
Tẩy Giả là được kính mừng cả trong ngày
Người sinh ra lẫn trong ngày Người tạ
thế. Tưởng không có gì lạ.
Tất cả cuộc đời của thánh
nhân từ lúc sinh ra, và ngay cả trước lúc sinh ra,
chỉ là một lời chứng duy nhất cho Chúa Giêsu.
Con
người của một sứ mạng
Có
những người cho rằng người ta sinh ra ở
đời là "bị vất vào đó”, một cách tình
cờ, vu vơ, vô nghĩa. Thông thường hơn, người ta nói mỗi
người có một định mệnh.
Trước định mệnh ấy con người
đành bó tay chịu đựng, không
cách nào thoát ra được. Người Công giáo thì tin
rằng mỗi người sinh ra là do ý muốn đầy
yêu thương của Thiên Chúa, rằng không phải
một sức mạnh mù quáng hay khắc nghiệt nào đó
đã ném họ vào đời, nhưng chính Tình Yêu của
Chúa "gọi” họ vào cuộc sống và khi cho một
con người sinh ra, Thiên Chúa có một ý định,
một dự tính về người ấy, không phải
như một kế hoạch áp đặt nhưng như
một sứ mạng để hoàn thành trong tự do và
trách nhiệm hầu cho con người được
hạnh phúc và cuộc đời họ được
thành tựu đích thực. Ta gọi sứ mạng
đớ là một "ơn gọi". Về mặt
này, trường hợp của ông Gioan Tấy Giả là
tiêu biểu vả rõ ràng.
Qua
tưởng thuật của Kinh Thánh, chúng ta thấy ý
định của Thiên Chúa về Gioan đã
được biểu lộ hiển nhiên ngay từ giây phút
ông được thụ thai, rồi trong việc ông sinh
ra, việc đặt tên cho ông, việc mẹ ông và mẹ
Chúa Cứu Thế gặp nhau vv.. Trong các biến cố
đó, ta thấy có sự can thiệp lạ lùng của Chúa
vào trong cuộc đời của Gioan để
định hướng cho nó. Điều đáng nói hơn
là về phần ông, một khi đã khôn lớn và nhận
ra sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó, Gioan Tẩy Giả không
còn biết gì khác hơn là sống trọn vẹn cho sứ
mạng đó một cách lô-gic, kiên quyết, trọn
vẹn, cho tới cùng. Ông rút lui sớm vào
hoang địa, sống khắc khổ xa lánh mọi mời
mọc, níu kéo của trần gian là để
được sống trọn vẹn hướng về
Đấng Cứu thế mà ông phải làm kẻ
"dọn đường". Ông rao
giảng bằng những lời lẽ thật nghiêm
khắc, mạnh mẽ để lôi kéo người ta sám
hối đổi đời vì thời gian không còn
nhiều, Nước Thiên Chúa sắp tới. Sau khi
thiên hạ đã rời ông để quay sang Đức
Giêsu, Đấng Cứu Thế, ông âm thầm rút lui vào bóng
tối vì đã hoàn thành nhiệm vụ "Người
phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ
đi", ông tuyên bố như thế (Ga 3,30).
Rồi cả cái chết của ông cũng là
một phần không thể tách lìa của sứ mạng
của một kẻ "dọn đường” và
"làm chứng cho ánh sáng và sự thật”.
Gioan và
Hêrôdê
Tôi thấy thánh Gioan Tẩy Giả Và vua
Hêrôđê, kẻ đã ra lệnh chém đầu
Người, là hai khuôn mặt hoàn toàn tương phản. Gioan là người mạnh mẽ, chí
khí, còn Hêrôđê là người yếu đuối, do
dự. Một đàng thì sống khắc khổ, giản
án dị, còn đàng kia lại thích xa hoa,
hưởng thụ. Hêrôđê đã bắt
giam ông Gioan vì ông mạnh mẽ tố cáo nhà vua đã
lấy vợ của anh mình. Thật ra
vua cũng tỏ ra kính phục nhà tiên tri, biết ông là người
công chính và thánh thiện, nhiều khi ông đã bênh vực
Gioan. Nhưng ông là người thiếu
ý chí, bị bao vây bởi đam mê, dục vọng. Và
tuy là người cai trị khôn khéo
nhưng ông lại bị các khuynh hướng xấu xa làm
chủ mình. Thế nên ông đã bắt Gioan
tống ngục, chắc hẳn là dưới sức ép
của bà Hêrôđiađê, người chị dâu mà ông ta
đoạt làm vợ. Rồi trong một bữa
tiệc, ông đã hài lòng về điệu múa của cô con
gái của bà đến độ đã hứa ban cho cô ta
bất cứ điều gì cô xin. Một
lời hứa bốc đồng. Đó
không phải là tiếng nói của lý trí, của lương
tâm mà là của cảm tính, của bản năng. Và thế là ông đã mắc mưu bà
Hêrôđiađê rồi. Bà bảo con gái hãy xin cái
đầu của Gioan. Đã lỡ hứa
trước mặt các thực khách, nhà vua đành phải
giữ lời, mặc dù trong thâm tâm không muốn giết
con người công chính này.
Vua
Hêrôđê tiêu biểu cho những con người để
cho phần thú tính nơi mình lấn lướt; mặc dù
đôi khi lý trí và lương tâm vẫn còn lóe lên nơi
họ, kêu gọi họ hãy vươn cao lên, nhưng không
đủ sức kéo họ ra khỏi vũng bùn lầy
bởi họ đã quen sống trong những sự
thấp hèn. Đối diện với Hêrôđê, ông Gioan
Tẩy Giả xuất hiện như một con
người có lý tưởng, sống nhất quán vì lý
tưởng đời mình; một con người của
bổn phận; con người biết chiến
đấu cương quyết chống lại những
lôi cuốn của bản năng thấp hèn; con
người của những đỉnh cao.
Thánh Gioan Tẩy Giả và chúng ta.
Như Gioan, mỗi người chúng ta
cũng có một sứ mạng, một ý định
của Thiên Chúa về chúng ta. Nhưng làm sao biết được?
Kinh Thánh và giáo lý của Hội Thánh cho ta biết rằng
con người được dựng nên "theo hình
ảnh của Thiên Chúa", "có khả năng hiểu
biết là yêu mến Tạo Hóa” và "chỉ con
người, nhờ sự hiểu biết và tình
thương, được mời gọi chia sẻ
sự sống của Thiên Chúa". Đó chính là mục
đích của việc tạo dựng con người. Con
người phát xuất từ Thiên Chúa, sẽ được
trở về với Thiên Chúa. Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo
(năm 1992) trích dẫn lời thánh nữ Catarina thành Sienna
như sau: "Vì sao Ngài đã dựng nên con người
với phẩm giá cao trọng như vậy? Với
tình thương vô biên, Ngài đã nhìn ngắm thụ tạo
nơi chính mình và say mê nó. Vì thương
yêu, Ngài đã tạo ra nó; vì yêu thương, Ngài cho nó
khả năng hưởng phúc vĩnh cữu, (sđd,
số 6).
Đó
là ý định chung của Thiên Chúa là
ơn gọi chung của chúng ta. Mỗi người sẽ
phải thế hiện ơn gọi đó cho nên mình tùy theo
diễn tiến cụ thể đời mình, theo những
điều kiện và hoàn cảnh sống thực tế,
khi ra sức tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa trong lề
luật của Người và lời dạy của Giáo
hội, trong việc bổn phận của bậc sống
mình, trong lương tâm ngay thăng, trong luật lệ
chính đáng của xã hội, trong các biến cố...
Không phải tự nhiên và dễ dàng mà
chúng ta có thể thực hiện ý định của Chúa
đối với chúng ta.
Trong mỗi người đều có hai khuynh hướng:
một nâng ta lên cao, một kéo ta đi xuống. Chúng ta thường xuyên kinh nghiệm rằng hai
khuynh hướng thiện ác đó đấu tranh kịch
liệt với nhau ngay trong ta. Muốn chiến
thắng, phải tỉnh thức và cầu nguyện,
phải tập nghe theo tiếng nói
của lý trí, của lẽ phải và lương tâm, trong
việc lớn cũng như việc nhỏ; đồng
thời cũng phải tập sống khổ chế, nghĩa
là sông có kỷ luật, biết hy sinh và từ bỏ. Làm
sao có thể có một đời sống tinh thần phong
phú nếu lúc nào cũng tìm kiếm và chiều theo những sự dễ dãi, thoái mái, nêu lúc
nào cũng chạy theo vui thú vật chất và xác thịt?
Ít năm sau chiến tranh, tôi có dịp
đi thăm một anh em tu sĩ chúng tôi ở Xuyên
Mộc. Ngài phụ trách một giáo xứ khoảng 4.000 giáo
dân và ba địa điểm cách giáo xứ từ 7
đến 20 cây số với số giáo dân khoảng 6.000
người nữa. Tôi đã đi thăm hai
địa điểm lớn ở xa. Đó.
là hai làng kinh tế mới. Tôi thấy giáo
dân thật sốt sắng, đầy can đảm trong
công việc làm ăn cũng như trong
việc đạo. Đặc biệt tôi
gặp một gia đình Dòng Ba Phanxicô gốc ở Phú
Nhuận. Khi tôi đến, ông đang
dạy giáo lý hôn nhân cho một chị độ 25 tuổi.
Ông bà cho biết: họ có mấy người con trai, trong
đó có đứa nghiện xì ke đã làm cho họ rất
khổ tâm. Để tránh cho mấy đứa khác khỏi
bị lôi kéo vào con đường hư hỏng đó, hai
ông bà đã quyết định đưa cả gia đình
tới đây sinh sống từ 1980. Bây giờ họ
sống nghèo nhưng vui và bình an. Tinh thần đơn
sơ, nghèo khó, vui tươi và phó thác của Dòng Ba đã
giúp họ can đảm sống cuộc đời
thiếu thốn vì lợi ích của con cái. Họ nói tuy
họ không giàu có nhưng con cái họ không hư hỏng.
Theo
"ơn gọi” và hoàn cảnh riêng của mình, hai
người công giáo này đáng cho ta khâm phục không kém Gioan
Tẩy Giả, và chắc chắn là gần gũi
và dễ noi gương hơn noi gương vị
Tiền Hô.
|