Đức
Giêsu dẹp yên bão tố
(Chú giải và Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
TM Máccô theo một cái
khung quen thuộc để kể truyện này: một
trở ngại phải vượt qua (một trận
cuồng phong trên biển), hành động quyền năng
của Đức Giêsu (lệnh truyền im lặng), và
sự xác nhận (sự yên lặng hoàn toàn và nỗi
sợ hãi của các môn đệ). Bối cảnh của
câu truyện này rất có thể là quan niệm cổ
xưa của Cận Đông về biển: đây là
biểu tượng của những quyền lực
của hỗn mang và sự dữ đấu tranh chống
lại Thiên Chúa. Các độc giả
đầu tiên của Mc nắm được ý nghĩa
của biểu tượng này đến mức nào, thì khó
mà biết. Nhưng chắc chắn câu
hỏi của các môn đệ (“người này là ai?”) cho
thấy là tác giả muốn nhấn mạnh trên chân tính
của Đức Giêsu. Câu hỏi ấy trở thành
một lời tung hô mặc nhiên mang tính
Kitô học nhìn nhận bản tính thần linh của
Đức Giêsu, bởi vì Người làm được
những việc Thiên Chúa làm.
Ở đầu bản văn, rõ ràng Mc
bận tâm tạo ra một móc nối với những
phần đi trước. Ngày sắp tàn là ngày đã có bài
giảng dài trên hồ (x. 4,1). Chiếc
thuyền Đức Giêsu dùng để qua hồ vẫn là
chiếc thuyền Người đã dùng làm bệ giảng
trên hồ (x. hình ảnh con thuyền trong Mc: 5,1.21;
6,45; 8,31). Bỏ đám đông ở
đầu c. 36 cũng là một điểm móc nối.
Riêng với chiếc thuyền: Chuyến vượt hồ
bằng thuyền tương ứng với việc
dừng lại nơi một ngôi nhà; và cũng như có
những giáo huấn đặc biệt Đức Giêsu ban
cho các môn đệ được nối kết với
lần dừng lại nơi một ngôi nhà (x. 7,17-23; 9,28t; 9,33-50; 10,10-12), thì cũng có
những hành vi quyền lực đặc biệt
được liên kết với chuyến vượt
hồ bằng thuyền. Chiếc thuyền là nơi
để Đức Giêsu mạc khải đặc
biệt cho các môn đệ (4,35-41;
6,45-52) và là nơi Người chờ đợi các ông
tỏ ra hiểu biết các hành vi quyền lực của
Người (8,17-21). Chiếc thuyền là
nơi có sự hiệp thông đặc biệt chặt
chẽ giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Và
chính là trong sự hiệp thông rất chặt chẽ này và
không thiếu hiểm nguy, mà các hành vi
cứu độ và mạc khải quan trọng của
Đức Giêsu được thực hiện.
2.- Bố cục
Sau khi đã giản lược một
số chi tiết, chúng ta có thể xác định bố
cục như sau:
1)
Đức Giêsu và các môn đệ trước khi gặp
sóng gió (4,35-37);
2)
Đức Giêsu và các môn đệ trong sóng gió (4,38-39);
3)
Đức Giêsu và các môn đệ sau sóng gió (4,40-41).
3.- Vài điểm chú giải
- Hôm ấy,
khi chiều đến (35): Tác giả quen dùng hai thành
ngữ đi liền nhau để chỉ thời gian,
trong đó vế thứ hai xác định vế thứ
nhất (x. 1,32.35).
- sang bờ
bên kia: nghĩa là sang bờ phía
đông của Hồ Galilê. Tại sao Đức Giêsu
muốn sang đó: để tránh sự chống đối?
để tìm một vùng đất
mới mà rao giảng? Ta không được rõ.
- ngủ (38):
Giữa trận cuồng phong dữ dội, Đức
Giêsu vẫn có thể ngủ, có lẽ vì Người quá
mệt, nhưng cũng chắc chắn vì Người
vừa hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa (x. Tv 4,9; 3,24-26)
vừa chứng tỏ Người luôn làm chủ mọi
tình huống.
- Thầy
ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy
chẳng lo gì sao? (38) Câu
hỏi này của các môn đệ đã được làm
nhẹ đi rất nhiều trong Mt 8,25
(“Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất”) và
Lc 8,24 (“Thầy ơi! Chúng ta chết
mất!”).
- truyền cho
biển (39): x. 1,25. Đức Giêsu có thể kiểm soát
biển, đây là mặc nhiên khẳng định rằng
Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa, bởi
vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể điều
khiển biển (x. Tv 73/74,13-14; 88/89,10-12).
- Câm đi! x. 1,25: động từ phimoô. Cơn bão
được coi như một thú dữ. Động
từ này cho hiểu rằng Đức Giêsu đang
chứng tỏ Người có thể kiểm soát các mãnh
lực của tà thần.
- Gió
liền tắt và biển lặng như tờ: Nhận
định này cho thấy Đức Giêsu hoàn toàn kiểm
soát được biển.
- nhát (HL. deiloi, 40): Nhiều lần các tác
giả Tân Ước đã cảnh giác về deilia (“sự nhát đảm”).
Ở Kh 21,8, những người nhát
đảm được kể ra cùng với những
người không tin (x. 2 Tm 1,7; Ga 14,1).
- Làm sao mà
anh em vẫn chưa có lòng tin? Lời trách này rất
nặng, do nhắm thẳng vào các môn đệ (x. 8,14-21). Phải chăng họ
đã mất niềm tin vào Thiên Chúa hoặc vào Đức
Giêsu? Nếu họ đã mất niềm tin vào Thiên
Chúa, chính là vì họ đã không chịu noi theo Đức
Giêsu đặt hết tin tưởng vào Thiên Chúa (4,38). Nếu họ đã mất
niềm tin vào Đức Giêsu, chính là họ vì họ đã
không cậy dựa vào quyền lực của Đức
Giêsu.
- Vậy
người này là ai? (41): Bởi vì chỉ một mình
Thiên Chúa mới có thể chế ngự gió và biển, câu
hỏi này của các môn đệ hàm chứa một
lời tuyên xưng mặc nhiên rằng Người làm
được những việc mà truyền thống
Cựu Ước thường trình bày là chỉ Thiên Chúa
mới làm được.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bản văn vừa cho thấy
tương quan mật thiết giữa Đức Giêsu và
các môn đệ vừa diễn tả lộ trình các môn
đệ khám phá ra mầu nhiệm Đức Giêsu: họ
bước theo Người, họ
chứng kiến các biến cố trong đó Người
can thiệp, họ khám phá ra mầu nhiệm bản thân
Người. Chi tiết “có những thuyền khác cùng theo” chỉ được nêu ra ở câu
đầu, rồi sau đó cho đến cuối, không
xuất hiện nữa.
* Đức Giêsu và các môn
đệ trước khi gặp sóng gió (35-37)
Sáng kiến vượt hồ là sáng
kiến của Đức Giêsu. Các môn đệ luôn thinh
lặng bước theo Người và
tận tình thực hiện những việc Người
đề nghị. Đức Giêsu luôn tỏ
ra là chủ, nắm vững mọi hướng đi.
* Đức Giêsu và các môn
đệ trong sóng gió (38-39)
Nguy hiểm
được mô tả bằng các chi tiết về sóng to
gió lớn. Nhưng
Đức Giêsu vẫn tỏ ra là chúa tể, làm chủ tình
hình: Người ngủ. Bình thường các môn đệ
chờ đợi Đức Giêsu phản ứng và dạy
bảo rồi mới làm theo; nhưng ở đây, thấy
bão táp quá nguy hiểm, các ông bị chao đảo trong
đức tin, các ông đã phản ứng trước
Thầy, các ông thúc bách Thầy bằng giọng hốt
hoảng và trách móc. Người đã trỗi
dậy, dẹp yên sóng gió. Ở đây, bão và biển
được truyền lệnh như những sinh
vật; chúng được yêu cầu “im đi!”, “câm mõm
lại!”. Quả thật,
từ vựng của bản văn là từ vựng
của một truyện trừ quỷ.
* Đức Giêsu và các môn
đệ sau sóng gió (40-41)
Dù sao chúng ta thấy
phản ứng của các môn đệ (hoảng sợ và
đánh thức Thầy) là chuyện hợp lý. Khó hiểu hơn, đó là những câu
hỏi của Đức Giêsu: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” (c. 40). Làm sao có thể cấm
các môn đệ sợ hãi khi gặp nguy hiểm chết
người? Đức tin này là loại đức
tin nào, mà ngay trong nguy hiểm cùng cực vẫn loại
trừ được nỗi sợ hãi? Đức
Giêsu trách các môn đệ là chỉ nhìn đến nguy
hiểm và những sức mạnh đe dọa của
thiên nhiên chứ không hiểu biết ai là người
đang cùng ở trên thuyền với họ. Chỉ
sau khi đã thực hiện phép lạ, Đức Giêsu
mới ngỏ lời với các môn đệ; lúc này,
họ lại trở về đúng vị trí là những
người bước theo, đón
nhận giáo huấn. Câu nói: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có
lòng tin?” chứng tỏ các môn đệ đã
được sống với Đức Giêsu khá lâu
rồi. Câu hỏi “Vậy người này là
ai…?” vừa nhìn nhận quyền lực của Đức
Giêsu vừa như muốn tìm ra câu trả lời nơi
những người nghe kể lại sự cố.
Ta sẽ gặp câu trả lời được
đề nghị trên môi Phêrô ở 8,29.
+ Kết
luận
Đoạn văn nêu
bật sự cần thiết của đức tin trong
đời sống người môn đệ. Nếu chúng ta hiểu rộng ra
rằng trận bão trên biển ấy là một hình ảnh
báo trước cuộc Khổ Nạn mà Đức Giêsu
sẽ đi vào, thì bước theo
Đức Giêsu, dù ngày hôm qua hay ngày hôm nay, luôn luôn là
bước theo Người xuyên qua Khổ Nạn. Và
như thế, cần phải có đức tin. Chỉ
với giá ấy, người môn đệ mới
được tham dự vào cuộc Phục Sinh vinh quang
với sự an bình thẳm sâu được.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hình
ảnh con thuyền trong đó các môn đệ sống chung
với Đức Giêsu là biểu tượng cho
cộng đoàn gồm những môn đệ hôm nay vẫn
đang muốn bước theo
Người. Đó chính là một cuộc
“cộng đồng sinh mệnh”, sống chết có nhau.
Phản ứng của các môn đệ trong
biến cố này là một tấm gương và một
lời nhắc nhở cho cộng đoàn Kitô hữu là
đừng rơi vào một thái độ không tin như thế.
Nếu chúng ta gắn bó với Đức
Giêsu, thì không có hoàn cảnh nào có thể tiêu diệt chúng ta,
bởi vì không có hoàn cảnh nào mà Người không chế
ngự được.
2. Sai lầm của các môn đệ là
chỉ nghĩ đến mình chứ không sẵn sàng chia
sẻ nguy hiểm với nhau và với Đức Giêsu. Hoàn cảnh này sẽ
được lặp lại khi họ chạy trốn
trong đêm Đức Giêsu bị bắt và bị
đưa đi đóng đinh. Cơn sóng gió cuối
cùng chúng ta sẽ gặp, và không có cách nào tránh
được, đó là cái chết. Mỗi
người chúng ta đều sẽ phải
đương đầu với cái chết; cái chết có
thể đến bất ngờ một trận cuồng
phong hay chậm chạp từ từ. Nhưng
cho dù cái chết đến bằng cách nào đi nữa,
chúng ta cũng lo sợ. Bài Tin Mừng này cho chúng ta
biết là chúng ta phải tin rằng Đức Giêsu luôn
nghĩ đến chúng ta, Người sẽ không
để chúng ta phải lo sợ quá mức. Chúng ta tin rằng
khi chúng ta cần, Người sẽ lên tiếng bảo
cơn sóng gió “Câm đi! Im đi!”
3. Lời mời gọi “Hãy sang bờ
bên kia”
có nhiều ý nghĩa đối với chúng ta. Với Giáo
Hội, “bờ bên kia” mang ý nghĩa là những người
hiện giờ không ở trong cộng đoàn chúng ta,
họ đang ở “bờ bên kia”, có thể họ là
những người vừa di chuyển đến trong xã
hội chúng ta, những người “bên phía kia”, là
người cao niên, người tàn tật, người
bệnh chờ chết, hay người di dân vì chiến
tranh trong trại di cư... Đức giáo hoàng Phanxicô
dạy trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng: “Mỗi Kitô
hữu và mỗi cộng đồng phải phân
định đường đi nước bước
mà Chúa vạch ra, nhưng tất cả chúng ta đều
được yêu cầu vâng theo tiếng gọi của
Người là ra đi khỏi khu vực tiện nghi
của mình để đến mọi vùng ngoại vi
đang cần ánh sáng Tin Mừng” (s. 20).
4. Lời Đức Giêsu trách các môn
đệ: “Làm sao mà anh
em vẫn chưa có lòng tin?” rất đúng cho chúng ta là
những người đã biết Đức Giêsu từ
lâu, đã sống với Người, đã
được chứng kiến biết bao nhiêu việc kỳ
diệu Người làm trong đời sống chúng ta, mà
vẫn không biết phản ứng hay lấy những
quyết định tương hợp với kinh
nghiệm ấy. Nhận biết đúng
đắn chân tính của Đức Giêsu thì sẽ có
một thái độ đúng đắn đối với
bản thân Người.
5. Các cộng đoàn chúng ta phải
đưa Đức Kitô đến cho người
ngoại, nên không thể nào tránh khỏi những khó khăn
và đối kháng.
Chẳng hạn, không phải mọi nhóm tôn giáo đều
tôn trọng tự do của cá nhân; những sứ giả
Tin Mừng có thể gặp những nguy hiểm chết
người… Tuy nhiên, vì loan báo Tin Mừng là sứ mạng
làm nên bản chất Kitô hữu, chúng ta không thể tránh né.
|